Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 05/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TT, TỈNH T

BẢN ÁN 09/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 05 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện TT, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 150/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 8 năm 2020 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 02/2021/QĐST – HNGĐ ngày 22/01/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Quách Thị A; sinh năm: 1998; Địa chỉ: Thôn Phong Phú, xã TM, huyện TT, tỉnh T.

- Bị đơn: Anh Trương Công Á; sinh năm: 1994; Địa chỉ: Thôn Vân Đình, xã TM, huyện TT, tỉnh T.

Tại phiên toà có mặt chị A, vắng mặt anh Á.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 23/7/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Quách Thị A trình bày: Chị và anh Trương Công Á kết hôn tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 06/7/2016 tại Uỷ ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) xã TM, huyện TT, tỉnh T. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng hoà thuận được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ, chồng không hợp, bất đồng nhiều quan điểm sống, anh Á không chăm lo cho gia đình, do đó vợ, chồng thường xuyên cãi nhau. Chị và anh Á đã sống ly thân từ đầu năm 2019 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Đến nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên chị yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trương Công Á.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Trương Ngọc D, sinh ngày 08/01/2017. Khi ly hôn chị A có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu D và yêu cầu anh Á có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng 1.000.000 đồng cho tới khi cháu D đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Chị A không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tòa án đã Tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Á đều vắng mặt không có lí do.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX), Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS); nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn không thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56; 58; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: Xử cho chị Quách Thị A được ly hôn anh Trương Công Á. Giao cháu Trương Ngọc D, sinh ngày 08/01/2017 cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng, anh Á có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị A mỗi tháng 1.000.000 đồng. Thời gian cấp dưỡng nuôi con tính từ tháng 02/2021 cho tới khi cháu D đủ 18 tuổi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự, nhưng anh Á vắng mặt không có lí do, nên tòa án đã tiến hành mở phiên họp vắng mặt anh Á và thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho anh Á theo khoản 3 Điều 210 BLTTDS. Anh Trương Công Á đã được triệu tập hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng anh Á đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 điều 207 BLTTDS.

Anh Á cũng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 BLTTDS, tòa án xét xử vắng mặt anh Á.

[2] Về hôn nhân: Chị Quách Thị A và anh Trương Công Á kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 06/7/2016 tại UBND xã TM, huyện TT, tỉnh T và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ, chồng thường xuyên cãi nhau. Chị A và anh Á đã sống ly thân từ đầu năm 2019 đến nay. Điều đó chứng tỏ chị A và anh Á đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị Quách Thị A được ly hôn anh Trương Công Á.

[3] Về con chung: Chị A và anh Á có 01 con chung là cháu Trương Ngọc D, sinh ngày 08/01/2017. Từ khi vợ, chồng sống ly thân cháu D ở với chị A được chị A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Xét nguyện vọng của chị A muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cháu D và yêu cầu anh Á cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng 1.000.000 đồng cho tới khi cháu D đủ 18 tuổi. Đây là nguyện vọng chính đáng nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định về mọi mặt cho con. Do đó chấp nhận yêu cầu của chị A giao cháu D cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng, anh Á có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị A mỗi tháng 1.000.000 đồng. Thời gian cấp dưỡng nuôi con tính từ tháng 02/2021 cho tới khi cháu D đủ 18 tuổi.

[4] Về tài sản: Chị A không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, anh Á phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56; 58; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Quách Thị A được ly hôn anh Trương Công Á.

2. Về con chung: Giao cháu Trương Ngọc D, sinh ngày 08/01/2017 cho chị Quách Thị A trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Trương Công Á có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Quách Thị A mỗi tháng 1.000.000 đ (Một triệu đồng). Thời gian cấp dưỡng nuôi con tính từ tháng 02/2021 cho tới khi cháu D đủ 18 tuổi.

Anh Trương Công Á có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Kể từ khi chị Quách Thị A có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chưa thi hành án anh Trương Công Á còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự trên số tiền phải thi hành án, tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

3. Về án phí: Chị Quách Thị A phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền chị đã nộp tạm ứng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TT, theo biên lai số AA/2018/0002834 ngày 29/7/2020. Chị A đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Anh Trương Công Á phải nộp 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt chị A, vắng mặt anh Á. Chị A có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Á có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 05/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

Số hiệu:09/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;