Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con  

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG- THÁP CHÀM, TỈNH N

BẢN ÁN 09/2021/HNGĐ-ST NGÀY 03/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 03 tháng 02 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 381/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 7 năm 2020 về “tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2021/ QĐ- HPT ngày 07 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị K, sinh năm: 1991(có mặt);

Bị đơn: Ông Nguyễn H, sinh năm: 1984 (vắng mặt);

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: khu phố A, phường B, thành phố P, tỉnh N.

Chỗ ở hiện nay: số nhà C đường D, khu phố E, phường Đ, thành phố P, tỉnh N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bà Nguyễn Thị K và ông Nguyễn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã X, huyện O, tỉnh N theo giấy chứng nhận kết hôn số: 5xx/2015 ngày 04 tháng 3 năm 2015.

Tại Đơn khởi kiện ngày 13 tháng 7 năm 2020 và tại phiên tòa, nguyên đơn- bà Nguyễn Thị K- trình bày:

Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống tại nhà chồng, đến tháng 1 năm 2019, vợ chồng bà chuyển đến cư trú tại địa chỉ: số nhà C đường D, khu phố E, phường Đ, thành phố P, tỉnh N cho đến nay.

Thời gian đầu sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2015 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân: Chồng bà công việc không ổn định, kinh tế gia đình phụ thuộc vào đồng lương của bà dẫn đến chuyện vợ chồng hay cãi nhau, ông H đánh bà nhiều lần. Sau khi nộp đơn ly hôn, vào ngày 02/9/2020, vợ chồng bà cãi nhau, chồng bà có nói lời xúc phạm, nhục mạ cha bài, sau đó còn đánh bà. Hiện nay, tình cảm giữa vợ chồng đã không còn nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn H.

Về con chung, vợ chồng có một con chung là Nguyễn I, sinh ngày: 12 tháng 7 năm 2015. Khi ly hôn, bà đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông Nguyễn H cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay bà đang làm nhân viên công ty tài chính, thu nhập mỗi tháng 8.000.000 đồng.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Tại Bản khai ngày 10 tháng 9 năm 2020, bị đơn- ông Nguyễn H trình bày:

Vợ chồng ông chung sống hạnh phúc thời gian đầu sau khi kết hôn, sau đó vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn, ông và vợ có cãi nhau, ông có đánh vợ ông, nay ông vẫn còn tình cảm với vợ, nên ông không đồng ý ly hôn.

Về quan hệ con chung: vợ chồng có một con chung tên là Nguyễn I, sinh ngày: 12 tháng 7 năm 2015 . Nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà K, ông đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu bà K cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay ông đang làm quản lý kinh doanh, thu nhập mỗi tháng 16 triệu.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện cuả nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Ông Nguyễn H và bà Nguyễn Thị K kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi, có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số: 5xx/2015 ngày 04/3/2015 tại Uỷ ban nhân dân xã X, huyện O, tỉnh N. Đây là hôn nhân hợp pháp. Hiện ông Nguyễn H và bà Nguyễn Thị K đăng ký nhân khẩu thường trú tại khu phố A, phường B, thành phố P, tỉnh N. Chỗ ở hiện nay của ông Nguyễn H và bà Nguyễn Thị K là số nhà C đường D, khu phố E, phường Đ, thành phố P, tỉnh N. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm căn cứ vào khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Tại phiên tòa, ông Nguyễn H vắng mặt, thủ tục tống đạt cho ông H hoàn toàn hợp lệ, nên Hội đồng xét xử căn cứ điều 227, điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn tại phiên tòa.

[3] Hội đồng xét xử xét thấy: Theo quy định tại điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Bà Nguyễn Thị K trình bày bà và ông Nguyễn H có nhiều mâu thuẫn, ông Nguyễn H có hành vi đánh đập bà, bà cung cấp hình chụp bị bạo hành ở mặt và thân thể, bản thân ông Nguyễn H thừa nhận ông có đánh vợ; như vậy ông H có hành vi bạo lực gia đình, vi phạm điểm h khoản 2 điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình. Ông Nguyễn H trình bày ông còn tình cảm với bà Nguyễn Thị K nhưng ông không đưa ra được phương án hòa giải, tại phiên tòa ông vắng mặt, không thể hiện nỗ lực hàn gắn hôn nhân. Căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, nên chấp nhận yêu cầu ly hôn cuả bà Nguyễn Thị K.

[4] Về quan hệ con chung: Ông Nguyễn H và bà Nguyễn Thị K có một con chung là Nguyễn I, sinh ngày: 12/7/2015. Cả ông Nguyễn H và bà Nguyễn Thị K đều mong muốn được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục cháu I. Bà K nộp Sao kê Tài khoản ngân hàng chứng minh thu nhập của bà dao động ở mức 8.000.000 đồng/ tháng, ông H không nộp được chứng cứ chứng minh thu nhập. Hiện bà K trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu I do bà làm việc trong giờ hành chính, có nhiều thời gian quan tâm chăm sóc, giáo dục cháu. Hội đồng xét xử căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của cháu I, chấp nhận yêu cầu của bà K: bà K được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, ông Nguyễn H không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do bà K không yêu cầu.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị K không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, “trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải nộp án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu”, do đó bà Nguyễn Thị K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39, khoản 4 điều 147, điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm h khoản 2 điều 5, điều 56, điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện cuả nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị K được ly hôn ông Nguyễn H.

2. Về quan hệ con chung:

Bà Nguyễn Thị K có quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Nguyễn I, sinh ngày: 12 tháng 7 năm 2015. Ông Nguyễn H không có nghiã vụ cấp dưỡng nuôi con, do bà Nguyễn Thị K không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu ông Hl ạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà Nguyễn Thị K có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông.

3. Về tài sản chung và nợ chung: các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị K phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà đã nộp theo Biên lai thu tiền số 00220xx ngày 13 tháng 7 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố P. Bà Nguyễn Thị K đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn.Quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

“Trường hợp bản án, quyết định, được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.” 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con  

Số hiệu:09/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;