Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 01/03/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 09/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/03/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 01 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số 379/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2020 về việc ly hôn và tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2021/QĐST-DS ngày 02 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Châu Minh Th, sinh năm 1991 Địa chỉ: ấp H, xã, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt)

2. Bị đơn: Anh Đinh Văn X sinh năm 1994 Địa chỉ: Ấp A, xã G, huyện T, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 23 tháng 11 năm 2020, biên bản lấy lời khai ngày 08 tháng 01 năm 2021và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Châu Minh Th trình bày:

Chị Châu Minh Th và anh Đinh Văn X hai người xây dựng hôn nhân vào năm 2014 và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện huyện T, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 56, ngày 07 tháng 10 năm 2014.

Thời gian chung sống chị Th và anh X có sinh một người con chung là cháu Đinh Bảo N, sinh ngày 15/12/2014 hiện con đang sống với anh X.

Về tài sản chung và nợ chung: không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Th cho rằng trong thời gian chung sống giữa chị và anh X thường xuyên xảy ra mâu thuẫn dẫn đến cải vã với nhau do tính tình không hợp, nguyên nhân chị Th cho rằng do anh X đánh chị khi vợ chồng có cải vã nhau và trong cuộc sống anh X không quan tâm chăm sóc vợ con. Từ đó chị thấy vợ chồng sống không hạnh phúc, chị và anh X sống ly thân từ tháng 10/2020 đến nay. Quá trình sống ly thân vợ chồng cũng không có biện pháp gì khắc phục. Nay chị Th yêu cầu được ly hôn với anh X. Khi ly hôn, chị Th đồng ý giao con chung Đinh Bảo N, sinh ngày 15/12/2015 cho anh X chăm sóc, nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và chị không cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung vợ chồng không có nên không yêu cầu giải quyết.

Đối với yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Châu Minh Th thì anh Đinh Văn X đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án và thông báo triệu tập anh X đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh X không đến và cũng không có văn bản gởi cho Tòa án biết về ý kiến của anh đối với yêu cầu khởi kiện của chị Th. Do vậy, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do chị Th cung cấp và do Tòa án thu thập được để làm cơ sở giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; bị đơn không thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định tại các Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273, Điều 278 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Về hôn nhân: Chị Châu Minh Th được quyền ly hôn với anh Đinh Văn X.

Về con chung: Giao cho anh Đinh Văn X được tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Đinh Bảo N, sinh ngày 15/12/2015 đến đủ 18 tuổi. Chị Th được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do anh X không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Th xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung và anh X không thể hiện có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung và anh chị không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

Đương sự chịu án phí theo qui định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Châu Minh Th khởi kiện yêu cầu ly hôn và tranh chấp về nuôi con khi ly hôn đối với anh Đinh Văn X và hiện nay anh X cư trú tại ấp A, xã G, huyện T, tỉnh Sóc Trăng nên Tòa án nhân dân huyện T thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án anh Đinh Văn X đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên họp kiểm tra việc giao, nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như triệu tập tham gia phiên tòa nhưng anh X đều vắng mặt không lý do. Hội đồng xét xử căn cứ khoản điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt đối với anh X tại phiên tòa.

[2] Về nội dung: Chị Châu Minh Th và anh Đinh Văn X hai người xây dựng hôn nhân vào năm 2014 và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện T, tỉnh Sóc Trăng, đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 56 ngày 07 tháng 10 năm 2014 nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[3] Xét lý do yêu cầu ly hôn của chị Châu Minh Th, Hội đồng xét xử thấy rằng, sau khi kết hôn chị Th và anh X có thời gian sống hạnh phúc, vợ chồng tạo sinh con cái, chung lo làm ăn ổn định cuộc sống gia đình, nhưng xét thấy sự hạnh phúc ấy tồn tại với vợ chồng anh chị không được bao lâu thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn gia đình do hai người bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không quan tâm chăm sóc nhau để cùng chung lo xây dựng hạnh phúc gia đình, không đóng góp những thiếu sót của nhau để cùng nhau tiến bộ. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng ban đầu không lớn nhưng do vợ chồng không có biện pháp khắc phục mà để cho mâu thuẫn kéo dài ngày thêm trầm trọng, dẫn đến không còn khả năng chung sống với nhau được nữa và hiện tại chị Th và anh X sống ly thân từ tháng 10 năm 2020 đến nay cũng không có biện pháp hàn gắn lại. Cũng trong quá trình giải quyết vụ án thì anh X cũng biết được việc chị Th yêu cầu ly hôn đối với anh X, nhưng anh X không có thiện chí hàn gắn nên anh không đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải để tìm biện pháp hàn gắn vợ chồng trở lại. Từ nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy từ khi chị Th và anh X sống ly thân đến nay nhưng không có biện pháp hòa giải hàn gắn lại, về mặt tình cảm vợ chồng thật sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn đến mức trầm trọng nên việc chị Th yêu cầu ly hôn đối với anh X là cần thiết. Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Châu Minh Th đối với anh Đinh Văn Xlà có căn cứ đúng pháp luật.

[4] Về con chung: Cháu Đinh Bảo N, sinh ngày 15/12/2015 hiện cháu đang sống với anh X, chị Th đồng ý giao cho anh X tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung đến đủ 18 tuổi. Hội đồng xét xử thấy rằng cháu N hiện đang sống với anh X từ khi chị Th và anh X sống ly thân đến nay về mặt tình cảm của cháu N có phần gắn bó với anh X nhiều hơn do đó việc chị Th đồng ý giao cho anh X tiếp tục trực tiếp nuôi con là phù hợp. Từ phân tích trên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu của chị Th là đồng ý giao cho anh Đinh Văn X tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cháu Đinh Bảo N, sinh ngày 15/12/2015, thời gian kể từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi cháu N đủ 18 tuổi là có căn cứ đúng pháp luật.

Chị Châu Thị Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. [5] Về cấp dưỡng nuôi con: Do anh Đinh Văn X không có yêu cầu nên chị Th không phải cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung: Chị Châu Minh Th xác định không có và không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét.

[7] Về nợ chung: Chị Châu Minh Th xác định vợ chồng không có nợ chung và không yêu cầu, nên không xem xét.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân và Gia đình, Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Châu Minh Th phải chịu án phí theo qui định pháp luật là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).

[8] Các quan điểm đề nghị giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa, như đã phân tích, là có căn cứ nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273, Điều 278 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội và mục A của Danh mục án phí, lệ phí Tòa án (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016):

Áp dụng Khoản 1 Điều 56, và các Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Châu Minh Th đối với anh Đinh Văn X. Chị Châu Minh Th được ly hôn với anh Đinh Văn X.

2. Về con chung: Giao cho anh Đinh Văn X tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cháu Đinh Bảo N, sinh ngày 15/12/2015, thời gian kể từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi cháu N đủ 18 tuổi.

Chị Châu Minh Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Châu Minh Th không phải cấp dưỡng nuôi con do anh Đinh Văn X không có yêu cầu.

4. Về tài sản chung: Chị Châu Minh Th xác định không có và không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét.

5. Về nợ chung: Chị Châu Minh Th xác định vợ chồng không có nợ chung và không yêu cầu, nên không xem xét.

6. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân và Gia đình, chị Châu Minh Th phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Chị Th đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007411 ngày 01 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Sóc Trăng, được chuyển thu án phí.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết công khai nơi cư trú, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 01/03/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:09/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Trị - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;