Bản án 09/2020/HS-ST ngày 26/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 09/2020/HS-ST NGÀY 26/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong các ngày 21 tháng 02 năm 2020 và 26 tháng 02 năm 2020 (tuyên án) tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2020 đối với các bị cáo:

1/Nguyễn Duy C (tên gọi khác: Trịnh Minh D); sinh năm: 1978 tại tỉnh Đồng Nai; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Không; nơi ở:/ (sống lang thang); nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: /(không biết chữ); dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Thành P và bà: Nguyễn Thị Thu H; tiền án: 01 (ngày 29/5/2018 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 01 tháng 14 ngày tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo Bản án số 179/2018/HSST); tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 24/5/1995 bị Tòa án nhân dân Quận 1 xử phạt 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân” theo Bản án số 105/HSST, ngày 30/6/1999 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 12 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 1293/HSST, ngày 31/3/2015 bị Tòa án nhân dân Quận 10 xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 32/2015/HSST; bị bắt giữ ngày: 23/9/2019.

2/Nguyễn Văn D (tên gọi khác: T); sinh năm: 1979 tại tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ H, ấp T, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh; nơi ở:(không có nơi ở nhất định); nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T (chết) và bà: Nguyễn Thị D (chết); tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 07/01/1999 bị Tòa án nhân dân Quận 1 xử phạt 12 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân” theo Bản án số 08/HSST, ngày 23/9/2005 bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 1621/2005/HS-PT; bị bắt giữ ngày: 23/9/2019.

3/Nguyễn Minh N; sinh năm: 1980 tại tỉnh Tây Ninh; nơi thường trú:

435/43/2 đường Huỳnh Tấn Phát, phường Tân Thuận Đông, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: /(không biết chữ); dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Minh Trí (chết) và bà: Ta Pha; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: ngày 25/8/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 72/2010/HSST; bị bắt giữ ngày:

23/9/2019.

- Bị hại:

(c bị cáo có mặt).

Ông Phạm N D – Sinh năm: 1995 (vắng mặt).

Địa chỉ: đường K, Phường K, Quận D, TP.HCM.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/Bà Nguyễn Thị Thanh T – Sinh năm: 1985 (vắng mặt).

Địa chỉ: đường B, Phường S, Quận T, TP.HCM.

2/Bà Lê Thị N – Sinh năm: 1983 (có mặt).

Địa chỉ: ấp Ta, xã T, huyện C, tỉnh Long An.

3/Bà Lý Thị N H – Sinh năm: 1985 (có mặt).

Địa chỉ: đường P, phường T, Quận B, TP.HCM.

4/Ông Nguyễn Tấn M – Sinh năm: 1983 (vắng mặt).

Địa chỉ: đường L, phường B, quận Đ, TP.HCM.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 30 ngày 23/9/2019, Nguyễn Duy C gặp và rủ Nguyễn Văn D, Nguyễn Minh N đi tìm người có tài sản để dàn cảnh móc túi. C phân công nhiệm vụ, cụ thể như sau: N là người tạo tình huống gây chú ý để người bị hại sơ sở, D chở C ngồi sau trực tiếp chiếm đoạt tài sản; N, D đồng ý. Sau đó, D điều khiển xe môtô biển số 59L1- 827.02 chở C, còn N điều khiển xe môtô biển số 59X3-317.78, lưu thông trên các tuyến đường. Khoảng 09 giờ 30 cùng ngày, khi lưu thông trên đường 3/2, C nhìn thấy anh Phạm N D điều khiển xe môtô biển số 54K5- 8631 lưu thông cùng chiều, ở túi quần bên phải của anh D có nhô ra 01 cọc tiền (số tiền 28.600.000 đồng), C liền báo cho cả nhóm biết. Khi đến trước nhà số 201 đường 3/2, Phường 9, Quận 10, N điều khiển xe áp sát bên trái và dùng chân phải đưa vào vị trí bàn đạp xe của anh N D rồi giả vờ kêu “đau, đau”; theo phản xạ, anh N D dừng xe lại. Lúc này, Nguyễn Văn D điều khiển xe áp sát bên phải, còn C ngồi sau dùng tay lén lút móc lấy cọc tiền trong túi quần anh N D; rồi cả nhóm tăng ga bỏ chạy. Lúc này, anh N D phát hiện bị mất tiền nên tri hô, đồng thời cùng lực lượng trinh sát hình sự Công an Quận 10 đuổi theo bắt giữ được N; riêng Văn D và C bị lực lượng trinh sát truy đuổi đến cây xăng ngã 3 xã Tân Kim, huyện Cần Giuộc, Long An thì bị bắt giữ cùng phương tiện, vật chứng; giải giao về Công an Phường 9, Quận 10 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang; sau đó chuyển hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tài sản bị chiếm đoạt là 28.600.000 đồng; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã thu hồi và giao trả lại cho anh Phạm N D. Anh D nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố, điều tra đối với Nguyễn Duy C, Nguyễn Văn D, Nguyễn Minh N về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Đối với 01 xe môtô biển số 59L1-827.02; qua xác minh, chiếc xe trên do chị Nguyễn Thị Thanh T đứng tên chủ sở hữu. Năm 2017, chị Tâm bán xe cho chị Lê Thị N (là bạn gái của D). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã trả xe cho chị Nhung.

Đối với 01 xe môtô biển số 59X3-317.78; qua xác minh, chiếc xe trên do anh Nguyễn Tấn M đứng tên chủ sở hữu. Tháng 6/2019, anh M bán xe cho chị Lý Thị N H (là vợ của N) và qua điều tra xác định đây là tài sản riêng của bà H; nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã trả xe cho chị H.

Ti bản cáo trạng số 07/CT-VKSQ10 ngày 13 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

Nguyễn Duy C, Nguyễn Văn D, Nguyễn Minh N về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Ti phiên tòa hôm nay:

- Các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án; về phái người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vẫn giữ nguyên lời khai trình như trong quá trình điều tra.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, bị hại, sau khi nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, bị cáo D có mẹ được phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, 03 anh ruột là Liệt sỹ và 01 anh là thương binh, bị cáo N có hoàn cảnh gia đình khó khăn) và nhân thân của từng bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2, 5 Điều 173; điểm s, h khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt các bị cáo:

Nguyễn Duy C: Từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù, phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Nguyễn Văn D: Từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung.

Nguyễn Minh N: Từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, miễn áp dụng hình phạt bổ sung.

Đề nghị xử lý trách nhiệm và các biện pháp tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến của các bị cáo: Không có ý kiến gì tranh luận.

- Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà các bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Ti Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình, qua lời khai nhận của các bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng, bản kết luận định giá trài sản, cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định các bị cáo thống nhất ý chí hành động thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản có giá trị 28.600.000 đồng theo kế hoạch đã tính toán chu đáo từ trước, có sự phân công, phân nhiệm và cấu kết chặt chẽ với nhau, đó là tội phạm có tổ chức; nên các bị cáo Nguyễn Duy C, Nguyễn Văn D, Nguyễn Minh N bị truy tố và xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

c hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Trong vụ án này, bị cáo C là người khởi xướng, rủ rê, phân công, phân nhiệm cho các bị cáo khác thực hiện và trực triếp chiếm đoạt tài sản, kế đến là bị cáo D là đồng phạm giúp sức tích cực, cung cấp phương tiện và chở C trực tiếp chiếm đoạt tài sản và tẩu thoát trong một đoạn đường rất dài mới bị bắt giữ, sau cùng bị cáo N là đồng phạm giúp sức, cung cấp phương tiện và tạo tình huống để bị hại mất tập trung, sở hở; ngoài ra các bị cáo còn có đặc điểm nhân thân, cụ thể: Đối với bị cáo C: Ngày 24/5/1995 bị Tòa án nhân dân Quận 1 xử phạt 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân” theo Bản án số 105/HSST, ngày 30/6/1999 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 12 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 1293/HSST, ngày 31/3/2015 bị Tòa án nhân dân Quận 10 xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 32/2015/HSST; bị cáo D: Ngày 07/01/1999 bị Tòa án nhân dân Quận 1 xử phạt 12 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân” theo Bản án số 08/HSST, ngày 23/9/2005 bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 1621/2005/HS-PT; bị cáo N: Ngày 25/8/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 72/2010/HSST; mặc dù tất cả đã được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm để tu dưỡng bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục các bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời căn cứ vào khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), phạt bổ sung đối với bị cáo C một khoản tiền, nộp ngân sách Nhà nước.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo C: Ngày 29/5/2018 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 01 tháng 14 ngày tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo Bản án số 179/2018/HSST, bị cáo đã bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, nhưng chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi tội nghiêm trọng do cố ý, nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); do vậy bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (đối với bị cáo C, D chưa thật sự ăn năn hối cải thể hiện qua quá trình nhân thân), phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, bị cáo D có mẹ được phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, 03 anh ruột là Liệt sỹ và 01 anh là thương binh, bị cáo N có hoàn cảnh gia đình khó khăn; do vậy Hội đồng xét xử tương ứng áp dụng điểm s, h khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với từng bị cáo; đồng thời miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo D, N do đã xóa án tích.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và giao trả cho bị hại; do vậy không có gì để Tòa giải quyết.

Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: các bị cáo Nguyễn Duy C, Nguyễn Văn D, Nguyễn Minh N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào điểm a khoản 2, 5 Điều 173; khoản 1 Điều 53; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s, h khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Duy C;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy C 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/9/2019.

Phạt bổ sung bị cáo C 10.000.000 (mười triệu) đồng, nộp ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 173; điểm s, h khoản 1, 2 Điều 51; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Văn D;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/9/2019.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo D.

- Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 173; điểm s, h khoản 1, 2 Điều 51; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Minh N;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh N 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/9/2019.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo N.

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc:

- Bị cáo C chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

- Bị cáo D chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

- Bị cáo N chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

c bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa thì tính tính từ ngày tuyên án; đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2020/HS-ST ngày 26/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:09/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;