Bản án 09/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 09/2020/HS-ST NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã V, huyện N, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:11/2020/TLST-HS ngày 26/11/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:09/2020/QĐXXST-HS ngày 10/12/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Mùa A L; sinh ngày 17/6/1990 tại huyện M, tỉnh Yên Bái; Nơi cư trú: Bản H, xã V, huyện N, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Mùa C và bà Giàng T; Bị cáo có vợ là Giàng Thị M và 05 con; Tiền sự: Không; Tiền án: có 01 tiền án. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 20/9/2020, sau đó tạm giam từ ngày 23/9/2020 cho tới nay, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Giàng Thị M, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Bản H, xã V, huyện N, tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 00 phút, ngày 20/9/2020, tổ công tác Công an huyện N phối hợp với Công an xã V và Đồn biên phòng B làm nhiệm vụ tại khu vực bản H, xã V, huyện N, tỉnh Điện Biên, phát hiện Mùa A L đang điều khiển xe máy đi từ hướng bản H, xã V ra trung tâm xã V có biểu hiện vi phạm pháp luật nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Sau khi dừng xe, Mùa A L đã ném 01 gói giấy màu trắng xuống đất. Tổ công tác đã yêu cầu Mùa A L nhặt gói giấy lên, mở bên trong có 02 gói nilon màu trắng đều chứa chất nhựa dẻo màu nâu đen có mùi hắc. Sau đó, tổ công tác đã mời người chứng kiến, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng là 01 gói giấy mở bên trong có 02 gói nilon màu trắng đều chứa chất dẻo màu nâu đen nghi là thuốc phiện và 01 chiếc xe máy màu đen, xe không có biển kiểm soát, số khung RLPOOHBOMH- B000421, số máy V2S152SNH515421.

Tại cơ quan điều tra Mùa A L khai nhận: 01 gói giấy bên trong có 02 gói nilon màu trắng, đều có chứa chất dẻo màu nâu đen mà tổ công tác Công an huyện N, thu giữ là thuốc phiện của Mùa A L mua của 01 người đàn ông dân tộc Mông, khoảng 30 tuổi, không quen biết vào sáng ngày 16/9/2020 tại khu vực bản Pá Kha, xã B, huyện N, tỉnh Điện Biên với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được thuốc phiện, L cất giấu trong túi quần. Đến khoảng 13 giờ 00 phút, ngày 20/9/2020 L đang điều khiển chiếc xe máy màu đen, không có biển kiểm soát đi từ nhà ra trung tâm xã V thì bị Công an huyện N, Công an xã V và Đồn biên phòng B phát hiện, bắt quả tang.

Tại Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 21/9/2020 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N xác định: Gói vật chứng số 01 có khối lượng 7,18 (bẩy phẩy mười tám) gam, lấy mẫu giám định 0,9 (không phẩy chín) gam, còn lại 6,28 (sáu phẩy hai mươi tám) gam; gói vật chứng số 02 có khối lượng 7,01 (bẩy phẩy không một), lấy mẫu giám định 01 (một) gam, còn lại 6,01 (sáu phẩy không một) gam. Tổng khối lượng 02 gói vật chứng là 14,19 (mười bốn phẩy mười chín) gam, sau khi trừ mẫu giám định là 12,29 (mười hai phẩy hai mươi chín) gam.

Tại Bản kết luận giám định số: 868/GĐ-PC09, ngày 28/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: "Hai mẫu chất dẻo màu nâu đen thu giữ của Mùa A L gửi giám định là chất ma túy: Loại Thuốc phiện. Thuốc phiện nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 47, Mục ID, Danh mục I, Nghị định 60/2020/NĐ-CP ngày 29/5/2020… Không hoàn lại đối tượng giám định".

Tại bản Cáo trạng số 63/CT-VKS-NP ngày 24/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Mùa A L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Mùa A L đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình phù hợp với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Mùa A L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Mùa A L từ 18 tháng đến 24 tháng tù; áp dụng điểm c khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu tiêu huỷ 12,29 gam thuốc phiện còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định; trả lại cho chị Giàng Thị M 01 chiếc xe máy màu đen, không có biển kiểm soát, số khung RLPOOHBOMH- B000421, số máy V2S152SNH515421. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật đối với bị cáo.

Bị cáo Mùa A L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhất trí với luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì thêm. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh và điều luật Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố đối với bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Mùa A L thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình: Vào hồi 13 giờ 00 phút, ngày 20/9/2020, Mùa A L đã có hành vi tàng trữ trái phép 14,19 (mười bốn phẩy mười chín) gam thuốc phiện, cất giấu trong túi quần đang mặc, khi đang điều khiển xe máy màu đen, không có biển kiểm soát, số khung RLPOOHBOMH-B000421, số máy V2S152SNH515421 tại khu vực bản H, xã V, huyện N, tỉnh Điện Biên. Mục đích bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy là để sử dụng cho bản thân vì bị cáo là người nghiện ma túy. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ.

Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Mùa A L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:… b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam”.

[2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội trên địa bàn xã V, huyện N vì ma túy không chỉ gây hủy hoại sức khỏe của con người mà còn là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, không bị ai xúi giục. Do đó, cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cải tạo bản thân trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời làm gương răn đe giáo dục các đối tượng khác đang và đã có hành vi như bị cáo nhưng chưa bị phát hiện, xử lý.

[3] Về nhân thân: Bị cáo Mùa A L xuất thân trong gia đình nông dân, nhưng không chịu lao động, sống buông thả nên đã nghiện ma túy. Năm 2018 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 18 (mười tám) tháng tù cũng về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Sau khi chấp hành xong bản án, trở về địa phương sinh sống, bị cáo không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà vẫn tiếp tục tái nghiện. Ngày 20/9/2020, bị cáo lại tiếp tục phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy khi chưa được xóa án tích. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo để bị cáo có thời gian cải tạo, cai nghiện.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Khi bị bắt giữ bị cáo luôn thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội. Tại phiên tòa, bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tại bản án số 68/2018/HS-ST, ngày 30/10/2018, bị cáo Mùa A L bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Điện Biên xử phạt 18 (mười tám) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đến ngày 14/11/2019 bị cáo được Trại giam Nà Tấu cấp Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù, trở về địa phương sinh sống. Ngày 20/9/2020, bị cáo lại tiếp tục phạm tội trong vụ án này. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới do lỗi cố ý khi chưa được xóa án tích, do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự thuộc trường hợp tái phạm.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, nghề nghiệp chính là làm nương, thu nhập không ổn định, gia đình bị cáo là hộ nghèo, bản thân bị cáo không có tài sản riêng có giá trị nên bị cáo không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Đối với vật chứng là thuốc phiện, Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự quyết định tịch thu tiêu hủy.

Đối với vật chứng là 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HOIVDA THAILA, số khung RLPOOHBOMH-B000421, số máy V2S152SNH515421, không có biển kiểm soát. Tại phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, ngày 27/10/2020 của Phòng cảnh sát giao thông tỉnh Điện Biên, đã xác định biển kiểm soát xe là 27M1-3432, chủ xe Giàng A Dế, địa chỉ bản H, xã Vg, huyện N. Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã làm rõ, anh Giàng A Dế đã bán chiếc xe máy cho gia đình bị cáo vào tháng 7/2020 với giá 500.000 đồng nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Nguồn gốc số tiền 500.000 đồng mua xe là của bố mẹ chị Giàng Thị M là vợ bị cáo cho chị Máng. Do bị cáo mới chấp hành xong hình phạt tù, không có phương tiện đi lại nên chị Máng đã cho bị cáo mượn sử dụng chiếc xe máy để làm phương tiện đi lại. Chị Máng không biết việc bị cáo Làng sử dụng chiếc xe máy để thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, chị Máng có nguyện vọng được nhận tài sản là chiếc xe máy của mình. Căn cứ vào khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát và ý kiến của chị Máng, quyết định trả lại chiếc xe máy cho chị Máng.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên và người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Trong vụ án Mùa A L khai nhận đã mua thuốc phiện của 01 người đàn ông dân tộc Mông, khoảng 30 tuổi vào sáng ngày 16/9/2020 tại khu vực bản Pá Kha, xã B, huyện N, tỉnh Điện Biên. Do bị cáo không biết tên, địa chỉ của người đàn ông này ở đâu nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không có căn cứ để điều tra, làm rõ xử lý theo quy định, Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Tại phiên tòa bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo là dân tộc thiểu số (dân tộc Mông) sống tại xã V, huyện N là xã có điều kiện - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình bị cáo là hộ nghèo. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[10] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Mùa A L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: Xử phạt phạt bị cáo Mùa A L 22 (hai mươi hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 20/9/2020.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ 12,29 (mười hai phẩy hai mươi chín) gam thuốc phiện còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định.

Trả lại cho chị Giàng Thị M 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HOIVDA THAILA, số khung RLPOOHBOMH-B000421, số máy V2S152SNH515421.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/11/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N và Chi cục thi hành án dân sự huyện N)

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Mùa A L.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Mùa A L được quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 23/12/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 09/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:09/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;