TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M L, TỈNH S L
BẢN ÁN 09/2020/HSST NGÀY 17/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 13/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
LVC, sinh ngày 17 tháng 10 năm 1982, tại MC, ML, SL; Nơi ĐKHKTT: Bản MK, xã MC, huyện ML, tỉnh SL; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn C và con bà Lò Thị B; có vợ là Lò Thị T, sinh năm 1996; có hai con lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại bản án số 40/2006/HSST ngày 20/3/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh SL đã xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Lưu hành tiền giả” và 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đều cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 48 tháng; Tại bản án số 26/2011/HSST ngày 21/01/2011 của Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL đã xử phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đều được xóa án tích; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/6/2020; Bị cáo có mặt tại phiên toà.
- Người làm chứng:
LVH, sinh năm 1979, địa chỉ: Bản MB, xã MB, huyện ML, tỉnh SL. Vắng Mặt.
QVO, sinh 1994, địa chỉ: Bản NN, xã MC, huyện ML, tỉnh SL. Vắng Mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo LVC bị Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Vào hồi 11 giờ 20 phút, ngày 07/6/2020, tại khu vực bản MK, xã MC, huyện ML, tỉnh SL, Công an phát hiện và bắt quả tang LVC, sinh ngày 17 tháng 10 năm 1982, trú tại: Bản MK, xã MC, huyện ML, tỉnh SL đã có hành vi bán trái phép chất ma túy tại nhà cho LVH, sinh năm 1979, địa chỉ: Bản MB, xã MB, huyện ML, tỉnh SL để lấy 190.000, đồng và bán cho QVO, sinh 1994, địa chỉ: Bản NN, xã MC, huyện ML, tỉnh SL để lấy 200.000, đồng.
Vật chứng thu giữ:
01 gói được gói bên ngoài bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt màu xanh, bên trong chứa cục bột màu trắng, thu giữ do LVH tự giác lấy trong túi quần bên phải đang mặc giao nộp, khai là Heroine mua của LVC với số tiền 190.000, đồng;
01 gói được gói bên ngoài bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt màu xanh, bên trong chứa cục bột màu trắng, thu giữ do QVO tự giác lấy trong túi áo ngực bên trái đang mặc giao nộp, khai là Heroine mua của LVC với số tiền 200.000, đồng;
02 tờ tiền polime mệnh giá 20.000, đồng và 02 tờ tiền polime mệnh giá 100.000,đồng thu giữ của LVC tự giác lấy trong túi quần soóc bên phải đang mặc giao nộp, khai nhận là tiền vừa bán Heroine cho LVH và QVO mà có.
01 gói túi màu xanh, bên trong chứa 38 viên nén và các cục bột màu hồng LVC tự giác lấy trong túi quần soóc bên phải đang mặc giao nộp khai là hồng phiến để sử dụng và bán;
01 túi màu xanh bên trong chứa 07 viên nén hình tròn màu hồng LVC tự giác lấy dưới đệm trên giường ngủ trong nhà giao nộp khai là hồng phiến để sử dụng và bán;
01 gói được gói bên ngoài bằng giấy nilon màu trắng bên trong chứa cục chất bột màu trắng, thu giữ do LVC tự giác lấy dưới đệm trên giường ngủ trong nhà giao nộp khai là Heroine cất giữ để bán;
Ngày 08/6/2020 cơ quan Công an đã thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định, kết quả:
01 gói được gói bên ngoài bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt màu xanh, bên trong chứa cục bột màu trắng, thu giữ do LVH tự giác lấy trong túi quần bên phải đang mặc giao nộp có khối lượng 0,03 gam, lấy 0,03 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu HC;
01 gói được gói bên ngoài bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt màu xanh, bên trong chứa cục bột màu trắng, thu giữ do QVO tự giác lấy trong túi áo ngực bên trái đang mặc giao nộp có khối lượng 0,06 gam, lấy 0,06 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu OC;
01 gói túi màu xanh, bên trong chứa 38 viên nén và các cục bột màu hồng LVC tự giác lấy trong túi quần soóc bên phải đang mặc giao nộp có tổng khối lượng 5,96 gam, lấy 0,80 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu CC;
01 túi màu xanh bên trong chứa 07 viên nén hình tròn màu hồng LVC tự giác lấy dưới đệm trên giường ngủ trong nhà giao nộp có tổng khối lượng 0,78 gam, lấy 0,32 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu CCO;
01 gói được gói bên ngoài bằng giấy nilon màu trắng bên trong chứa cục chất bột màu trắng, thu giữ do LVC tự giác lấy dưới đệm trên giường ngủ trong nhà giao nộp khối lượng 9,10 gam, lấy 0,66 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu CO;
Công an huyện ML, tỉnh SL Quyết định trưng cầu giám định chất ma túy, loại ma túy.
Tại Kết luận giám định số: 932/KLMT ngày 11/6/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh SL. Kết luận: Mẫu ký hiệu HC, OC, CO là chất ma túy, loại Heroine, tổng khối lượng 9,19 gam; Mẫu ký hiệu CC, CCO là chất ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 6,74 gam.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo LVC không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.
Quá trình điều tra LVC, LVH, QVO khai nhận: Khoảng hồi 11 giờ 05 phút, ngày 07/6/2020, LVH đến nhà LVC hỏi mua Heroine, LVH đưa cho LVC 190.000, đồng sau khi nhận tiền LVC lấy 01 gói được gói bên ngoài bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt màu xanh, bên trong chứa cục bột màu trắng đưa cho LVH, sau khi nhận ma túy đi về đến bản Nong, xã MC, huyện ML thì bị phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng, sau đó Công an đưa LVH về nhà của LVC để lập biên bản và tại đây phát hiện LVC đang bán cho QVO 01 gói được gói bên ngoài bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt màu xanh, bên trong chứa cục bột màu trắng để lấy 200.000, đồng. Số tiền bán ma túy cho LVH được 190.000, đồng LVC đã dùng chi tiêu hết 150.000, đồng, còn 40.000, đồng đã giao nộp cùng 200.000, đồng tiền bán ma túy cho QVO khi bị bắt quả tang.
Về nguồn gốc số Heroine và Methamphetamine LVC khai mua của một người đàn ông dân tộc mông không biết tên, địa chỉ với số tiền 11.000.000, đồng vào ngày 05/6/2020 sau khi mua được đã chia nhỏ ra để sử dụng và để bán, không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của LVC.
Đối với LVH đã mua ma túy của LVC để sử dụng, số Heroine khi thu giữ có khối lượng 0,03 gam; QVO đã mua ma túy của LVC để sử dụng, số Heroine khi thu giữ có khối lượng 0,06 gam. Do đó không đủ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với LVH và QVO. Cơ quan Công an huyện ML đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo LVC đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
Bản cáo trạng số: 83/CT-VKSML ngày 27 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố bị cáo LVC về tội tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm c, p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo LVC phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
Căn cứ điểm c, p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015:
Xử phạt LVC từ 11 đến 12 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có tài sản.
Về vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 240.000, đồng tiền mua bán ma túy mà có.
Tịch thu tiêu huỷ: 04 vỏ phong bì cũ; 02 mảnh giấy một mặt màu trắng, một mặt màu xanh; 02 túi nilon màu xanh; 01 túi ni lon màu trắng; 5,62 gam Methamphetamine; 8,44 gam Heroine. (đều đã được niêm phong).
Buộc bị cáo nộp truy thu nộp ngân sách Nhà nước: 150.000, đồng tiền mua bán ma túy mà có đã chi tiêu hết.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình điều tra, tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên Quyết định truy tố. Bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên toà bị cáo LVC thừa nhận: Ngày 07/6/2020 tại nhà LVC đã thực hiện hành vi bán trái phép Heroine có khối lượng 0,03 gam cho LVH lấy 190.000, đồng và bán trái phép Heroine có khối lượng 0,06 gam cho Quang Văn Oan lấy 200.000, đồng, đồng thời cất giữ trái phép số Heroine có khối lượng 9,10 gam. Tổng khối lượng số Heroine là 9,19 gam và số Methamphetamine tổng khối lượng 6,74 gam để bán và sử dụng thì bị bắt quả tang.
LVC mua bán ma túy cho hai người nên thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
Do LVC mua bán hai chất ma túy, cần căn cứ Điều 4 của Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018, để tính tổng khối lượng của hai chất như sau:
Số 6,74 gam Methamphetamine + số Heroine có khối lượng 9,19 gam = 15,93 gam, nên thuộc trường hợp quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Thông báo kết quả giám định, lời khai của người mua ma túy.
Như vậy có đủ cơ sở kết luận:
Bị cáo LVC đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” với tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại điểm c “đốivới hai người trở lên” và điểm p “Có 02 chất ma túy trở lên...” khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Bị cáo không có tài sản nên không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.
Hội đồng xét xử xét thấy: Tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục bị cáo.
[3]. Về nhân thân: Bị cáo đã hai lần bị kết án, đều được xóa án tích, được coi là không có tiền án, tiền sự và được xác định nhân thân không tốt có liên quan đến hoạt động ma túy.
Tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[4]. Về vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 240.000, đồng tiền mua bán ma túy mà có.
Tịch thu tiêu huỷ: 04 vỏ phong bì cũ; 02 mảnh giấy một mặt màu trắng, một mặt màu xanh; 02 túi nilon màu xanh; 01 túi ni lon màu trắng; 5,62 gam Methamphetamine; 8,44 gam Heroine. (đều đã được niêm phong).
Buộc bị cáo nộp truy thu nộp ngân sách Nhà nước: 150.000, đồng tiền mua bán ma túy mà có đã chi tiêu hết.
Về nguồn gốc số Heroine và Methamphetamine LVC khai mua của một người đàn ông dân tộc mông không biết tên, địa chỉ với số tiền 11.000.000, đồng vào ngày 05/6/2020 sau khi mua được đã chia nhỏ ra để sử dụng và để bán, không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của LVC. Nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về số ma túy.
Đối với LVH đã mua ma túy của LVC để sử dụng, số Heroine khi thu giữ có khối lượng 0,03 gam; QVO đã mua ma túy của LVC để sử dụng, số Heroine khi thu giữ có khối lượng 0,06 gam. Do đó không đủ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với LVH và QVO. Cơ quan Công an huyện ML đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là thỏa đáng.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c “đối với hai người trở lên”, p “Có 02 chất ma túy trở lên...” khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015:
Tuyên bố bị cáo LVC phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt bị cáo LVC 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 07/6/2020.
Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 240.000, đồng (hai trăm bốn mươi nghìn đồng) tiền mua bán ma túy mà có.
Tịch thu tiêu huỷ: 04 vỏ phong bì niêm phong cũ; 02 mảnh giấy một mặt màu trắng, một mặt màu xanh; 02 túi nilon màu xanh; 01 túi ni lon màu trắng; 5,62 (năm phẩy sáu mươi hai) gam Methamphetamine; 8,44 (tám phẩy bốn mươi bốn) gam Heroine. (đều đã được niêm phong).
Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML, tỉnh SL.
Buộc bị cáo LVC nộp truy thu nộp ngân sách Nhà nước: 150.000, đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) tiền mua bán ma túy mà có đã chi tiêu hết.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo LVC phải chịu 200.000, đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 17/11/2020.
Bản án 09/2020/HSST ngày 17/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 09/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về