Bản án 09/2020/HS-ST ngày 17/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 09/2020/HS-ST NGÀY 17/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 3 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khaivụ án hình sự thụ lý số: 06/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Bùi Văn D, sinh năm1980, tại huyện C, tỉnh An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): không biết chữ; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; c vợ là Nguyễn Thị C1 và 02 con sinh năm 2002, 2011;

Tiền án, tiền sự: chưa;

Bị tạm giữ từ ngày 22/12/2019 đến ngày 28/12/2019 chuyển tạm giam cho đến nay; c mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn P là Luật sư Văn phòng Luật sư N thuộc Đoàn Luật sư tỉnh A; vắng mặt.

- Bị hại:

+ Ông Lại Thanh L, sinh năm 1984; nơi cư trú: ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; c mặt. + Bà Lê Thị Ngọc M, sinh năm 1985; nơi cư trú: ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; c mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1990; nơi cư trú: ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

+ Ông Hồ Văn C (U), sinh năm 1995; nơi cư trú: ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Thị C1, sinh năm 1979; nơi cư trú: ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; c mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Lê Thành V; vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Văn V1; vắng mặt.

+ Bà Bùi Thị Ngọc ; vắng mặt.

+ Ông Phạm Văn N; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu c trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được t m tắt như sau:

Bùi Văn D làm thuê gần nhà Lại Thanh L và Lê Thị Ngọc M (vợ của  L) ở ấp M, xã M, quan sát và nảy sinh ý định trộm cắp tài sản trong nhà của  L và M. Khoảng 22 giờ ngày 16/12/2019, D chuẩn bị 01 cây kềm răng, cán bọc nhựa màu đen để trong túi quần, chạy xe đạp đến khu đất trống cách nhà M khoảng 20m ngồi đợi người trong nhà ng . Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 17/12/2019, D dùng kềm bẻ kh a rào B40, đi vào mở cửa hông nhà của  L và M nhưng không được, D đi vòng ra cửa sau dùng tay mở chốt gài cửa vào trong nhà lấy trộm 01 máy sạ phân hiệu KASEI 3WF-3NE, màu trắng - cam; 01 máy xịt thuốc sâu hiệu HONDA KAWADEGUANG, màu trắng - đ , rồi đi ra kh i nhà chạy xe đạp chở đi. Khoảng 05 giờ 30 phút cùng ngày, phát hiện bị mất trộm tài sản, L và M trình báo cơ quan Công an. Hay tin sự việc lấy trộm tài sản bị phát hiện, nên ngày 22/12/2019 D đến Công an xã K đầu thú, giao nộp tài sản đã lấy trộm.

- Vật chứng thu giữ và xử lý vật chứng: Thu giữ 01 máy sạ phân hiệu KASEI 3WF-3NE, màu trắng - cam; 01 máy xịt thuốc sâu hiệu HONDA KAWADEGUANG màu trắng - đ , hiện đã trả cho L và M; 01 xe đạp màu trắng c baga phía sau, hiện đã trả cho C1 (vợ của  D); 01 áo thun dài tay màu xanh; 01 quần dài màu xanh và 01 cây kềm răng cán bọc nhựa màu đ dài 16cm, hiện đang còn tạm giữ để xử lý.

- Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 64/KL-HĐĐG ngày 26/12/2019 của  Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C: 01 máy sạ phân hiệu KASEI 3WF-3NE, màu trắng - cam, đã qua sử dụng, trị giá 1.500.000 đồng; 01 máy xịt thuốc sâu hiệu HONDA KAWADEGUANG màu trắng - đ , đã qua sử dụng, trị giá 2.400.000 đồng; 02 chiếc nhẫn kiểu tròn trơn vàng 24kara, trọng lượng mỗi chiếc 05 chỉ, trị giá 41.100.000 đồng. Tổng giá trị tài sản 45.000.000 đồng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới khởi tố, tạm giam Dớt để điều tra xử lý.

Tại Cáo trạng số 06/CT-VKSCM ngày 17 tháng 02 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Bùi Văn D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, - Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo không c ý kiến tranh luận với lời luận tội của  Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử xử phạt nhẹ, cho bị cáo chấp hành hình phạt bên ngoài xã hội.

- Bị hại ông Lại Thanh L, bà Lê Thị Ngọc M, người c quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị C1 cung cấp lời khai như đã khai trong giai đoạn điều tra.

- Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Lời nhận tội của  bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của  bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác c trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Cáo trạng của  Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 là c căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của  bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu của  công dân được pháp luật hình sự bảo vệ. Cho nên, đề nghị xử phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của  bị cáo.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đầu thú. Vì vậy, đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 01 năm tù.

Về hình phạt bổ sung, do bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, thu nhập không ổn định nên đề nghị không áp dụng.

Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu h y 01 áo thun dài tay màu xanh, 01 quần dài màu xanh và 01 cây kềm cán bọc nhựa do không còn giá trị sử dụng. Về trách nhiệm dân sự, do bị hại không yêu cầu bồi thường nên đề nghị không đề cập giải quyết.

- Trong phần tranh luận, Kiểm sát viên cho rằng, bị cáo đã lợi dụng sơ hở của  bị hại để chiếm đoạt tài sản của  bị hại, thể hiện sự xem thường pháp luật. Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản, đang c chiều hướng tăng, trên địa bàn huyện C, đề nghị xử phạt bị cáo như đã đề nghị trong lời luận tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của  cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của  Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Mới, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, th tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không c ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của  cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đ , các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của  pháp luật.

[2] Về hành vi bị truy tố của  bị cáo, bị cáo Bùi Văn D khai nhận, do nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của  ông Lại Thanh L, bà Lê Thị Ngọc M, khoảng 22 giờ 00, ngày 16/12/2019, bị cáo để 01 cây kềm răng để vào túi quần, chạy xe đạp đến khu đất trống, gần nhà ông L, bà M ngồi đợi người trong nhà ng . Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 17/12/2019, bị cáo dùng kềm bẻ kh a rào B40, đi vòng ra cửa sau, mở chốt gài cửa vào trong nhà lấy trộm 01 máy sạ phân màu trắng, cam, 01 máy xịt thuốc sâu màu trắng, đ , rồi đi trở ra, chạy xe đạp chở đi. Đến ngày 22/12/2019, khi biết sự việc bị phát hiện, bị cáo chỉ nơi cất giấu tài sản rồi nhờ Nguyễn Thị C1, Hồ Văn C (vợ và cháu của  bị cáo) mang trả cho ông L, bà M và đến Công an xã K đầu thú.

Lời khai của  bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của  bị cáo ở giai đoạn điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác gồm: biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 20/12/2019 cùng sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường kèm theo do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới lập; lời khai của  ông Lại Thanh L, bà Lê Thị Ngọc M về việc phát hiện bị mất trộm tài sản vào khoảng 05 giờ ngày 17/12/2019; lời khai của  ông Lê Thành V (em của  bà M), ông Nguyễn Văn V1 về việc được bà M cho biết bị mất trộm tài sản vào ngày 17/12/2019; lời khai của  bà Nguyễn Thị C1 (vợ của  bị cáo), ông Hồ Văn C (cháu của  bị cáo) và bà Nguyễn Thị H (chạy xe đò) về việc bị cáo cho bà C1, ông C biết đã lấy trộm 01 máy sạ phân và 01 máy xịt thuốc sâu của  ông L, bà M, chỉ nơi cất giấu và nhờ bà C1, ông C đem trả vào ngày 17/12/2019. Đến khoảng 15 giờ 00 ngày 18/12/2019, ông C điều khiển xe mô tô, bà C1 thuê bà H chở máy sạ phân, máy xịt thuốc sâu bị chiếm đoạt trả cho ông L, bà M; lời khai của  bà Bùi Thị Ngọc  (vợ của  ông C) về việc nghe tin bị cáo lấy trộm tài sản bị phát hiện nên n i cho ông Chiến biết. Sau đó, ông C cùng bà C1 mang tài sản lấy trộm được trả cho ông L, bà M.

Ngoài ra, lời khai của  bị cáo còn phù hợp với vật chứng bị thu giữ gồm:

01 máy sạ phân, 01 máy xịt thuốc sâu bị chiếm đoạt; 01 xe đạp màu trắng, 01 cây kềm răng cán bọc nhựa màu đ và 01 áo thun dài tay màu xanh, 01 quần dài màu xanh được bị cáo sử dụng làm phương tiện, mặc khi thực hiện hành vi chiếm đoạt.

Từ các chứng cứ trên, c cơ sở xác định, khi phát hiện ch sở hữu sơ hở trong việc bảo quản tài sản, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt 01 máy sạ phân, 01 máy xịt thuốc sâu của  ông L, bà M.

Đối với ý kiến của  các bị hại về việc bị mất 02 chiếc nhẫn, thấy rằng, các bị hại khai, ngoài 01 máy sạ phân, 01 máy xịt thuốc sâu, các bị hại còn bị mất trộm 02 chiếc nhẫn kiểu tròn trơn vàng 24 kara, trọng lượng mỗi chiếc 05 chỉ. Người làm chứng ông Nguyễn Văn V1 c nghe bà M n i bị mất 02 chiếc nhẫn vàng 24 kara; ông Lê Thành V c nghe bà M n i bị mất 01 cây vàng 24 kara; ông Phạm Văn N xác định, bà M c đến tiệm vàng của  ông N mua 02 chiếc nhẫn vàng 24 kara, trọng lượng mỗi chiếc 05 chỉ (không biên nhận). Tuy nhiên, các bị hại không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh việc bị chiếm đoạt 02 chiếc nhẫn. Trong khi đ , bị cáo không thừa nhận c chiếm đoạt 02 chiếc nhẫn. Tài liệu, chứng cứ c trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa cũng không thể hiện việc bị cáo c chiếm đoạt 02 chiếc nhẫn. Cho nên, không c căn cứ xác định bị cáo đã chiếm đoạt 02 chiếc nhẫn như ý kiến của  các bị hại.

Theo Kết luận định giá tài sản số 64/KL-HĐĐG ngày 26/12/2019 của  Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C, 01 máy sạ phân trị giá 1.500.000 đồng; 01 máy xịt thuốc sâu trị giá 2.400.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 3.900.000 đồng.

Bị cáo là người c đầy đ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của  ông L, bà M là xâm phạm quyền sở hữu của  người khác nhưng vẫn cố ý thực hiện thông qua việc lợi dụng lúc đêm khuya, khi tài sản không c người trông giữ, nhanh ch ng mang tài sản đi nơi khác cất giấu và sự thừa nhận của  bị cáo tại phiên tòa. Vì vậy, hành vi của  bị cáo đã đ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cho nên, Cáo trạng của  Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của  đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới tại phiên tòa là c căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của  pháp luật. [3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, quyền sở hữu là một trong những quyền thiêng liêng gắn với mỗi cá nhân, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong lĩnh vực luật hình sự, những ai xâm phạm đến quyền sở hữu của  người khác, đáp ứng quy định của  pháp luật hình sự sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất là hình phạt.

Bị cáo là người đang ở tuổi lao động. Đáng lẽ, bị cáo phải tìm cho mình một công việc phù hợp để nuôi sống bản thân, gia đình nhưng vì hám lợi, bị cáo trộm cắp tài sản của  người khác. Hành vi của  bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu của  người khác mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đ , cần c hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo kh i đời sống xã hội một thời gian nhất định, để đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã t rõ thái độ thành khẩn khai báo; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đầu thú. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bên cạnh đ , khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo chưa c tiền án, tiền sự, c nhân thân tốt. Vì vậy, cần xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung, do bị cáo không c nghề nghiệp, thuộc thành phần lao động nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm của  người c quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị C1 không biết việc bị cao sử dụng xe đạp là tài sản chung của  bị cáo và C1 làm phương tiện phạm tội. Bà C1, ông Hồ Văn C, bà Nguyễn Thị Kim H không cùng bị cáo chiếm đoạt tài của  bị hại. Khi được bị cáo chỉ nơi cất giấu và nhờ trả tài sản bị chiếm đoạt cho bị hại, bà C1 đã thuê bà H và cùng ông C mang máy sạ phân và máy xịt thuốc sâu trả cho bị hại. Cho nên, trách nhiệm hình sự không đặt ra đối với bà C1, ông C, bà H là phù hợp với quy định pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra đã giao trả cho các bị hại 01 máy sạ phân và 01 máy xịt thuốc sâu bị chiếm đoạt; giao trả cho bà C1 01 xe đạp là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự nên không đề cập xử lý lại.

- 01 áo thun dài tay màu xanh, 01 quần dài màu xanh là trang phục được bị cáo mặc khi phạm tội nên là vật c giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội; 01 cây kềm được bị cáo sử dụng để bẻ kh a đột nhập vào nhà của  bị hại chiếm đoạt tài sản nên là phương tiện phạm tội. Do các vật này không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu h y theo các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

[8] Về trách nhiệm dân sự, sau khi nhận lại 01 máy sạ phân và 01 máy xịt thuốc sâu bị chiếm đoạt, các bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đề cập giải quyết.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại, người c quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án c quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản;

Xử phạt: Bùi Văn D: 09 (chín) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của  bị cáo được tính kể từ ngày bị tạm giữ, ngày 22/12/2019 (ngày hai mươi hai, tháng mười hai, năm hai nghìn không trăm mười chín).

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 (một) áo thun dài tay màu xanh, c túi phía trước bên trái, phía sau áo có chữ quán cà phê Lước Hà (đã qua sử dụng);

- 01 (một) quần dài màu xanh (đã qua sử dụng);

- 01 (một) cây kềm răng cán bọc nhựa màu đen , dài 16cm (đã qua sử dụng).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11 tháng 3 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới với Chi cục Thi hành án dân sự huyện C).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Bùi Văn D phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, ông Lại Thanh L, bà Lê Thị Ngọc M, bà Nguyễn Thị C1 c quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của bà Nguyễn Thị Kim H, ông Hồ Văn C (U) là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

371
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2020/HS-ST ngày 17/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:09/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;