Bản án 09/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 09/2020/HS-ST NGÀY 15/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 434/2019/TLST-HS ngày 24/12/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2020/QĐXXST-HS ngày 02/01/2020, đối với bị cáo:

Đoàn Trọng T; sinh năm: 1989; tại: Hà Tĩnh; hộ khẩu thường trú: Thôn L, xã S, huyện H, tỉnh H; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hoá (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đoàn Trọng Q; và bà: Phạm Thị H; vợ Nguyễn Thị M; có 01 con (sinh năm 2014); tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giam ngày: 19/7/2019 đến ngày 27/7/2019 áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt) - Bị hại: Anh Võ Công T1, sinh năm 1978, địa chỉ: x đường y, phường B, quận T, Thành phố H. (Vắng mặt) - Người làm chứng: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1990. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Khoảng 19 giờ ngày 17/7/2019, Đoàn Trọng T điều khiển xe Container biển số: 51C-XXX.XX chở vợ là Nguyễn Thị M đến bãi xe Linh Trung địa chỉ số x, đường y, khu phố z, phường Linh Trung, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh thì xe bị hư, T xuống để sửa xe nhưng không sửa được nên T và M lên xe ngủ. Đến 8 giờ ngày 18/7/2019, M đón xe đi tìm thuê nhà trọ tại khu vực phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Còn T ở lại sửa xe đến khoảng 12 giờ cùng ngày, T đi vào trong bãi xe Linh Trung thì phát hiện xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 54S5–YYYY của anh Võ Công T1 để trong bãi xe không có người trông coi, nên T nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe mô tô trên với mục đích sử dụng đi lại. T dùng chìa khóa xe mô tô biển số 67N5–ZZZZ của T để mở khóa xe mô tô biển số 54S5-YYYY. Sau khi mở được khóa xe mô tô biển số 54S5–YYYY, T đã dùng cờ lê số 10 ở trên xe container để tháo biển số: 54S5–YYYY và thay bằng biển số: 67N5–ZZZZ (là biển số xe của T), còn biển số xe 54S5–YYYY T bỏ vào trong xe container rồi chạy xe mô tô vừa lấy trộm được về bãi xe x, phường T, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh cất giấu. Sau đó, T lấy xe mô tô vừa trộm được đi đến tiệm dán keo xe tại địa chỉ số a đường b, khu phố 2, phường Phước Long A, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh để thay tay nắm của xe. Đến khoảng 18 giờ 20 phút cùng ngày anh T1 đang trên đường đi về và đi ngang qua Tiệm dán keo xe địa chỉ số a đường b, khu phố 2, phường Phước Long A, Quận 9 thì phát hiện xe mô tô của anh T1 ở trong tiệm. Anh T1 đến Công an phường Phước Long A, Quận 9 trình báo. Công an phường Phước Long A, Quận 9 tiến hành kiểm tra đưa T và xe mô tô về Cơ quan lập hồ sơ xử lý.

Sau đó, chuyển toàn bộ hồ sơ, vật chứng cùng Đoàn Trọng T đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Thủ Đức để giải quyết theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Thủ Đức, Đoàn Trọng T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên (BL: 46 – 47) Bản kết luận định giá tài sản số 1429 ngày 26/7/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự đã kết luận 01 xe mô tô biển số: 54S5-7421 có giá là 4.000.000 đồng.

Vật chứng vụ án:

- 01 xe mô tô biển số: 54S5-YYYY, số khung: Y-235192, số máy: 5C63235200 (đã thay bằng biển số 67N5–XXXX) - Biển số: 54S5–YYYY.

- 01 cờ lê số 10.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius có biển số 54S5 – YYYY qua xác minh được biết do chị Nguyễn Thị Thu H, đứng tên chủ sở hữu. Năm 2013, chị H bán lại cho anh Võ Công T1 với giá 13.000.000 đồng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 30/10/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức đã trả lại xe mô tô biển số 54S5 – 7421 cho anh Võ Công T1.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Võ Công T1 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm (BL: 64 – 65)

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Đoàn Trọng T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố.

Bản Cáo trạng số 02/CT-VKSTĐ ngày 13/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Đoàn Trọng T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng khoản 1 của Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, cùng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng để xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù, phần dân sự đã giải quyết xong.

Bị cáo Đoàn Trọng T không tranh luận, bào chữa. Bị cáo Đoàn Trọng T nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Đoàn Trọng T phù hợp với lời khai của bị hại, bản trình báo nguồn tin vụ việc về an ninh trật tự, biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại anh Võ Công T1. Tài sản chiếm đoạt là 01 xe mô tô biển số: 54S5-YYYY trị giá 4.000.000 đồng. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Đoàn Trọng T đã phạm “Tội trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định, trừng trị tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Vì động cơ vụ lợi, bị cáo đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với hình phạt nghiêm, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, nên giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[3] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

- Bị hại anh Võ Công T1 đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì, Hội đồng xét xử ghi nhận.

- 01 cờ lê số 10 là công cụ phạm tội, 01 biển số 67N5–XXXX bị cáo tháo từ xe bị cáo mua, hiện không có giấy tờ xe, được sử dụng làm công cụ phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy.

[4] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Đoàn Trọng T phạm “Tội trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Đoàn Trọng T 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 19/7/2019 đến ngày 27/7/2019.

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 cờ lê số 10, 01 biển số 67N5-YYYY. (Phiếu nhập kho số 042 ngày 05/12/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức) - Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Đoàn Trọng T chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa, thời gian kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:09/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;