TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP,TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 09/2020/HS-ST NGÀY 10 /11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 10 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 09/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10 /QĐXXST-HS ngày 29/10/2020 đối với bị cáo:
Lò Văn C, tên gọi khác: Không, sinh ngày 05 tháng 12 năm 1988, tại huyện S, tỉnh Sơn La.
Nơi cư trú: Bản H, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng Trọt; trình độ học vấn: Lớp 9/12; dân tộc: Khơ Mú; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn K và bà Lò Thị Th có vợ (đã ly hôn) và có 01 con; tiền án; tiền sự: không có; bị bắt tạm giam từ ngày 16/7/2020 cho đến nay, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 15/7/2020 C đang trên đường về nhà ở bản H, xã M, huyện Sốp Cộp thì gặp một người dân tộc Thái không quen biết tự giới thiệu tên là Tuấn, qua nói chuyện Tuấn rủ C vào nhà văn hóa của bản để cùng sử dụng chất ma túy. Sau khi sử dụng xong C thấy Tuấn đang nghe điện thoại trao đổi mua bán ma túy với một người, sau đó Tuấn rủ C đi bán ma túy cùng, Tuấn đưa cho C cầm 02 gói ma túy, 01 gói chứa 3 viên nén màu hồng, 01 gói chứa 05 viên nén màu hồng và nói nếu bán được sẽ cho C 50.000 đồng, C nhất trí, khi đi đến cuối bản Huổi Làn thì bị Công an huyện Sốp Cộp phát hiện lập biên bản quả tang và thu giữ số vật chứng nói trên từ C; Trong khi bắt C Tuấn lợi dụng sơ hở đã bỏ chạy.
Ngày 16/7/2020 Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, thành lập hội đồng mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định, xác định khối lượng vật chứng, tách bì, cân tịnh 05 viên nén màu hồng trong túi ni lon màu trắng có tổng khối lượng 0,47 gam, đã sử dụng 3 viên có khối lượng 0,28 gam làm mẫu giám định ký hiệu C, vật chứng còn lại 2 viên có khối lượng 0,19 gam ký hiệu C1.
Tách bì, cân tịnh 3 viên nén màu hồng có khối lượng 0,29 gam, sử dụng 02 viên làm mẫu giám định ký hiệu C2, 01 viên còn lại có khối lượng 0,09 gam ký hiệu C3.
Bản kết luận giám định số 1202 ngày 21/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu C,C2 là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu giám định C= 0, 28gam, C2= 0,20 gam; Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,76 gam; loại Methamphetamine.
Bản Cáo trạng số 85/CT-VKSSC ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, truy tố bị cáo Lò Văn C về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, sau khi trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 251, Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lò Văn C từ 30 tháng đến 36 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng:
Tịch thu để tiêu hủy: 01(một) phong bì thư đã niêm phong; bên trong có 01 vỏ phong bì niêm phong cũ, 01 mảnh ni lon màu trắng cũ, 01 mảnh ni lon màu hồng cũ cùng túi vật chứng lưu kho ký hiệu C1có khối lượng 0,19 gam; túi vật chứng lưu kho, ký hiệu C3 có khối lượng 0,09 gam Methamphetamine.
Về án phí: Miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Về nguồn gốc ma túy; bị cáo C khai là của người tên Tuấn đưa cho để cùng đi bán, do không xác định được họ, tên và địa chỉ của Tuấn, ngoài lời khai của C ra không còn căn cứ khác chứng minh, nên C phải chịu trách nhiệm về số ma túy đã thu giữ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]Về chứng cứ xác định tội danh:
Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn C khai nhận khoảng 23 giờ ngày 15/7/2020 bị cáo đã cất giấu 8 viên ma túy tổng hợp trên người để cùng với Tuấn đi bán cho một người không quen biết thì bị Công an huyện Sốp Cộp phát hiện lập biên bản quả tang và thu giữ số vật chứng nói trên; Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 23 giờ 6 phút ngày 15 tháng 7 năm 2020; Biên bản cân tịnh vật chứng, kết luận giám định số 1202, ngày 21/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, vật chứng của vụ án là 0,76 gam ma túy, loại Methamphetamine.
Từ những căn cứ nêu trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Văn C phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
[3] Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:
Hành vi của bị cáo cất giấu ma túy để bán cho người khác là vi phạm pháp luật, hành vi tiếp tay cho người khác phạm tội là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn, là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, nhằm răn đe giáo dục bị cáo và để phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự : Không có Tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Với các căn cứ nêu trên. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp kết luận bị cáo Câm phạm tội mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự và đưa ra mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội là có căn cứ đúng với quy định của pháp luật.
[5] Về hình phạt bổ sung:
Ngoài hình phạt chính lẽ ra bị cáo phải bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo qui định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự; xét thấy gia đình bị cáo là hộ nghèo không có điều kiện thi hành, nên không áp dụng.
[6]Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
01(một) phong bì thư đã niêm phong; bên trong có 01 vỏ phong bì niêm phong cũ, 01 mảnh ni lon màu trắng cũ, 01 mảnh ni lon màu hồng cũ cùng túi vật chứng lưu kho, ký hiệu C1 có khối lượng 0,19 gam ma túy, loại Methamphetamine; túi vật chứng lưu kho, ký hiệu C3 có khối lượng 0,09 gam là ma túy, loại Methamphetamine là vật cấm lưu hành cần tịch thu để tiêu hủy.
[7] Về án phí: Nơi cư trú của bị cáo có điều kiện xã hội, kinh tế đặc biệt khó khăn, Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, cần miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
[8] Tuyên quyền kháng cáo đối với bị cáo
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1.Về Điều luật áp dụng : Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự: Tuyên bố Lò Văn C, phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy ;
2. Về hình phạt : Xử phạt Lò Văn C 30 (Ba mươi) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/7/2020.
3. Về hình phạt bổ sung : Không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.
4. Vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu để tiêu hủy 01(một) phong bì thư đã niêm phong; bên trong có 01 vỏ phong bì niêm phong cũ và 01 mảnh ni lon màu trắng cũ, 01 mảnh ni lon màu hồng cũ cùng túi vật chứng lưu kho ký hiệu C1 có khối lượng 0,19 gam; túi vật chứng lưu kho ký hiệu C3 có khối lượng 0,09 gam Methamphetamine.
Toàn bộ vật chứng của vụ án theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23 tháng 10 năm 2020, giữa Chi cục thi hành án dân sự và Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.
5. Về án phí: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016 /UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ; quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn C.
6. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (10/11/2020).
Bản án 09/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 09/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về