Bản án 09/2020/HS-ST ngày 10/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 09/2020/HS-ST NGÀY 10/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2020/QĐXXST- HS ngày 27 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Lương Thị Kiều Tr, sinh ngày 08 tháng 11 năm 1998 tại Bình Dương; Nơi cư trú: Ấp T, xã AB, huyện PG, tỉnh BD; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Ch, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1974 (chết); bị cáo có 02 người con tên Lương Minh Th, sinh năm 2017 và Lương Minh C, sinh năm 2019.

Tiền án: 02 tiền án:

Ngày 11/10/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Ngày 21/8/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt 06 tháng tù tại Bản án số 50/2018/HSST ngày 11/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 01 năm 03 tháng tù (bị can Tr được hoãn chấp hành án theo Quyết định số 01 ngày 20/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo).

Tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/11/2019 đến ngày 25/11/2019 th được thay thế biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh đến ngày 13/02/2020, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Nguyễn Ngọc Y, sinh năm 1975; Địa chỉ: Ấp T, xã L, huyện PG, tỉnh BD, có mặt.

La Thị L, sinh năm 1979; Địa chỉ: Khu phố 9, thị trấn Phước Vĩnh, huyện Phú Giáo, tỉnh nh Dương, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Nguyễn Thị D, sinh năm 1962; Địa chỉ: Ấp TH, xã TL, huyện ĐP, tỉnh BP, vắng mặt.

Cao Đình B, sinh năm 1968; Địa chỉ: Thôn 9, xã H, huyện PR, tỉnh BP, vắng mặt. Nguyễn Duy Đ, sinh năm 1993; Địa chỉ: Khu phố 1, phường TT, thành phố ĐX, tỉnh BP, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 14/11/2019, Lương Thị Kiều Tr điều khiển xe mô tô biển số 93P1-942.59 từ nhà thuộc Ấp TH, xã TL, huyện ĐP, tỉnh BP đến xã Tam Lập, huyện Phú Giáo, tỉnh nh Dương với mục đích tìm kiếm tài sản để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Khi đi ngang qua tiệm tạp hóa Tuấn Y thuộc tổ 2, Ấp T, xã L, huyện PG, tỉnh BD do bà Nguyễn Ngọc Y làm chủ, Tr dựng xe mô tô ở ngo i đường ĐH501 rồi đi bộ vào tiệm tạp hóa, quan sát thấy bà Y đang nằm ngủ trên võng, Tr lén lút đi đến bàn đá lấy trộm một xấp tiền lẻ cột bằng dây thun đựng trong cái rổ nhựa màu đỏ và 01 bịch nylon màu đỏ bên trong đựng card điện thoại của các nhà mạng với nhiều mệnh giá khác nhau để kế bên bàn đá, bỏ vào túi áo khoác. Sau đó, Tr tiếp tục lấy 01 (một) túi xách màu trắng gần vị trí bà Y đang nằm ngủ. Sau khi lấy được tài sản, Tr điều khiển xe mô tô đến khu vực cầu “ a i” thuộc ấp Đồng Sen, xã An Bình, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, Tr lấy tiền trong túi xách đếm được 12.170.000 đồng, Tr đem cất vào túi áo khoác đang mặc, tiền card điện thoại 2.300.000 đồng; 01 chai dầu và 01 bịch thuốc tây,Tr bỏ vào túi xách rồi vứt xuống suối. Sau đó điều khiển xe mô tô về nhà. Khi phát hiện bị mất tài sản bà Nguyễn Ngọc Y đến Công an xã Tam Lập trình báo sự việc. Qua công tác điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo mời Lương Thị Kiều Tr lên làm việc, Tr đã thừa nhận hành vi lấy trộm tài sản của bà Nguyễn Ngọc Y với số tiền 12.170.000 đồng, Tr đã tiêu xài hết 2.170.000 đồng, còn lại 10.000.000 đồng, Tr cất giấu ở nhà, Công an huyện Phú Giáo thu giữ số tiền 10.000.000 đồng.

Ngoài ra, Tr còn khai nhận như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 29/10/2019, Tr điều khiển xe mô tô biển số 93P1 – 942.59 lưu thông trên đường ĐT 741 hướng từ xã An nh đến thị trấn Phước Vĩnh, huyện Phú Giáo với mục đích tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Khi đi ngang qua tiệm tạp hóa của bà La Thị L thuộc khu phố 9, thị trấn Phước Vĩnh, quan sát thấy bà L đang nằm ngủ trên ghế bố, Tr dựng xe bên đường rồi lén lút đi vào tiệm tạp hóa lấy 01 túi xách treo trên kệ bỏ vào túi áo khoác đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi vào hướng cây xăng K9 thuộc khu phố 5, thị trấn Phước Vĩnh thì dừng xe lại. Tr mở túi xách lấy số tiền 230.000 đồng. Riêng số thẻ card điện thoại mệnh giá khác nhau có giá trị khoảng 550.000 đồng, Tr đem bỏ vào trong túi xách rồi vứt vào thùng rác trên đường. Sau đó, Tr điều khiển xe mô tô về nhà.

Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Giáo thu giữ:

01 (một) nón bảo hiểm không nhãn hiệu, màu xanh dương có vành lưỡi trai, phía sau nón có hình con chó, phía sau bên phải nón có hình nhãn mác ghi dòng chữ “Tri Lieo”; 01 áo khoác nữ màu cam nhãn hiệu T$A fashion trên ngực trái áo có logo ghi dòng chữ “FASHION WEAR VOGOE”; một chứng minh nhân số 281292077 cấp ngày 06/3/2017 mang tên Lương Thị Kiều Tr. Đây là tài sản hợp pháp của Tr nên cần trả lại cho Tr.

01 (một) xe mô tô biển số 93P1 – 94259, số khung C6207Y018534, số máy 5C62018534, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 93P1 - 94259 do ông Cao Đ nh đứng tên chủ sở hữu. Tháng 02 năm 2019 ông Bảy đã bán chiếc xe mô tô trên cho ông Nguyễn Duy Đ nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 05/3/2019, ông Điệp đã bán lại xe mô tô trên cho bà Nguyễn Thị D nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 14/11/2019 bà Dợn để xe mô tô ở nhà Lương Thị Kiều Tr tự ý lấy xe mô tô làm phương tiện dùng vào việc phạm tội bà Dợn không biết. Do đó, đề nghị trả xe mô tô biển số 93P1 – 94259 lại cho bà Dợn.

Đối với một túi xách màu trắng có hình hoa văn Tr lấy trộm tại tiệm tạp hóa Nguyễn Ngọc Y, Tr đem vứt bỏ tại cầu Ba Bi, thuộc ấp Đồng Sen, xã An Bình, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương và một túi xách màu ghi Tr lấy trộm tại tiệm tạp hóa La Thị L, ở khu phố 9, thị trấn Phước Vĩnh, Tr đem vứt bỏ trong thùng rác. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo lập biên bản thu giữ vật chứng không thành.

Về mặt dân sự:

Tại phiên tòa, bà Nguyễn Ngọc Y yêu cầu Lương Thị Kiều Tr bồi thường số tiền 14.470.000 đồng (gồm 12.170.000 đồng tiền mặt v 2.300.000 đồng tiền card). Đối với số tiền 10.000.000 đồng thu giữ của Tr đề nghị tuyên trả lại cho bà Y, đồng thời buộc Lương Thị Kiều Tr bồi thường tiếp số tiền 4.470.000 đồng cho bà Nguyễn Ngọc Y.

Bà La Thị L yêu cầu Lương Thị Kiều Tr bồi thường số tiền 2.000.000 đồng, Tr đồng ý bồi thường nhưng Tr chưa bồi thường cho bà L.

Cáo trạng số 12/CT-VKSPG ngày 06/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo truy tố bị cáo Lương Thị Kiều Tr về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lương Thị Kiều Tr về tội “trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả, hành vi phạm tội của bị cáo Tr, Kiểm sát viên đề nghị cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bản thân người phạm tội là phụ nữ có thai. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, các điểm s, n khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lương Thị Kiều Tr từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù v đề nghị xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Đối với 01 (một) nón bảo hiểm không nhãn hiệu, màu xanh dương có vành lưỡi trai, phía sau nón có hình con chó, phía sau bên phải nón có hình nhãn mác ghi dòng chữ “Tri Lieo”; 01 áo khoác nữ màu cam nhãn hiệu T$A fashion trên ngực trái áo có logo ghi dòng chữ “FASHION WEAR VOGOE”; một chứng minh nhân số 281292077 cấp ngày 06/3/2017 mang tên Lương Thị Kiều Tr. Đây là tài sản hợp pháp của Tr nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho Tr.

- Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 93P1 – 94259, nhãn hiệu Yamaha Sirius màu sơn đen, đỏ, bạc, số khung RLCS 5C6207Y018534, số máy 5C62018534 do ông Cao Đình B đứng tên chủ sở hữu. Tháng 02 năm 2019 ông B đã bán chiếc xe mô tô trên cho ông Nguyễn Duy Đ nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 05/3/2019, ông Đi đã bán lại xe mô tô trên cho bà Nguyễn Thị D nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 14/11/2019 bà D để xe mô tô ở nhà Lương Thị Kiều Tr tự ý lấy xe mô tô làm phương tiệm dùng vào việc phạm tội bà D không biết. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử trả xe mô tô nêu trên cho bà D.

- Đối với 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 93P1 – 94259 số 029579 mang tên Cao Đình B không liên quan đến việc phạm tôi nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho Cao Đình B

Tại phiên tòa bị cáo Tr cho rằng Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự l đúng người, đúng tội, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo, tỉnh nh Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá tr nh điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá tr nh điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Tr; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

Khoảng 12 giờ ngày 14/11/2019, Lương Thị Kiều Tr điều khiển xe mô tô biển số 93P1 - 94259 từ nhà thuộc Ấp TH, xã TL, huyện ĐP, tỉnh BP đến xã Tam Lập, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, khi đi ngang qua tiệm tạp hóa Tuấn Y, thuộc tổ 2, ấp Đồng Tâm, xã Tam Lập, huyện Phú Giáo quan sát thấy bà Nguyễn Ngọc Y đang nằm ngủ trên võng, Tr lén lút lấy trộm một xấp tiền lẻ cột bằng dây thun đựng trong cái rổ nhựa màu đỏ và 01 bịch nylon màu đỏ bên trong đựng card điện thoại của các nhà mạng với nhiều mệnh giá khác nhau để kế bên bàn đá, bỏ vào túi áo khoác. Sau đó, Tr tiếp tục lấy 01 (một) túi xách màu trắng gần vị trí bà Y đang nằm ngủ. Sau khi lấy được tài sản, Tr điều khiển xe mô tô đến khu vực cầu “ a i” thuộc ấp Đồng Sen, xã An Bình, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, Tr lấy tiền trong túi xách đếm được 12.170.000 đồng, Tr đem cất vào túi áo khoác đang mặc, tiền card điện thoại 2.300.000 đồng; 01 chai dầu và 01 bịch thuốc tây,Tr bỏ vào túi xách rồi vứt xuống suối. Sau đó điều khiển xe mô tô về nhà. Khi phát hiện bị mất tài sản bà Nguyễn Ngọc Y đến Công an xã Tam Lập trình báo sự việc. Qua công tác điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo mời Lương Thị Kiều Tr lên làm việc, Tr đã thừa nhận hành vi lấy trộm tài sản của bà Nguyễn Ngọc Y với số tiền 12.170.000 đồng, Tr đã tiêu x i hết 2.170.000 đồng, còn lại 10.000.000 đồng, Tr cất giấu ở nhà, Công an huyện Phú Giáo thu giữ số tiền 10.000.000 đồng.

Khoảng 13 giờ ngày 29/10/2019, Tr điều khiển xe mô tô biển số 93P1 – 942.59 thực hiện hành vi trộm tài sản của bà La Thị L, tại khu phố 9, thị trấn Phước Vĩnh, huyện Phú Giáo, Tr lấy 01 túi xách trong đó có số tiền 230.000 đồng và một số thẻ card điện thoại mệnh giá khác nhau có giá trị khoảng 550.000 đồng, Tr đem bỏ vào trong túi xách rồi vứt vào thùng rác trên đường. Sau đó, Tr điều khiển xe mô tô về nhà.

Như vậy, Cáo trạng số 12/CT-VKSPG ngày 06/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo truy tố bị cáo Lương Thị Kiều Tr về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời còn gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng với động cơ tham lam, tư lợi, bị cáo đã thực hiện tội phạm m không nghĩ đến sự trừng phạt của pháp luật. Bản thân bị cáo có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội trộm cắp tài sản vì vậy lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó, cần xử bị cáo mức án thật nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm trừng trị, răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo cho phù hợp.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo trong quá tr nh điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là phụ nữ có thai là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s, n khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật, sớm nhận ra lỗi lầm của mình, an tâm cải tạo trở thành công dân tốt cho xã hội.

Xét thấy, mức án đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo l tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Lương Thị Kiều Tr bồi thường cho bị hại tổng số tiền là 16.470.000 đồng (mười sáu triệu bốn trăm bảy mươi ng n đồng), bao gồm:

Bồi thường cho bà Nguyễn Ngọc Y số tiền 14.470.000 đồng (mười bốn triệu bốn tram bảy mươi nghìn đồng). Khấu trừ số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) theo văn bản Ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử ngày 02/3/2020 giữa Công an huyện Phú Giáo và Kho bạc Nhà nước huyện Phú Giáo, đơn vị nhận tiền là Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo, bị cáo Tr phải bồi thường tiếp cho bà Y số tiền 4.470.000 đồng (bốn triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng);

Bồi thường cho bà La Thị L số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng).

[5] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

01 (một) nón bảo hiểm không nhãn hiệu, màu xanh dương có vành lưỡi trai, phía sau nón có hình con chó, phía sau bên phải nón có hình nhãn mác ghi dòng chữ “Tri Lieo”; 01 áo khoác nữ màu cam nhãn hiệu T$A fashion trên ngực trái áo có logo ghi dòng chữ “FASHION WEAR VOGOE”; một chứng minh nhân số 281292077 cấp ngày 06/3/2017 mang tên Lương Thị Kiều Tr. Đây là tài sản hợp pháp của Tr nên cần trả lại cho Tr.

01 (một) xe mô tô biển số 93P1 – 94259, nhãn hiệu Yamaha Sirius màu sơn đen, đỏ, bạc, số khung RLCS 5C6207Y018534, số máy 5C62018534 do ông Cao Đình B đứng tên chủ sở hữu. Tháng 02 năm 2019 ông ảy đã bán chiếc xe mô tô trên cho ông Nguyễn Duy Đ nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 05/3/2019, ông Điệp đã bán lại xe mô tô trên cho bà Nguyễn Thị D nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 14/11/2019 bà Dợn để xe mô tô ở nhà Lương Thị Kiều Tr tự ý lấy xe mô tô làm phương tiện dùng vào việc phạm tội bà Dợn không biết. Do đó, cần trả xe mô tô nêu trên cho bà Dợn.

01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 93P1 – 94259 số 029579 mang tên Cao Đình B không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho ông Cao Đình B

[6] Về án phí hình sự và dân sự sơ thẩm: Bị cáo Lương Thị Kiều Tr phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lương Thị Kiều Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về điều luật áp dụng và mức hình phạt: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; các điểm s, n khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 53, Điều 56 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lương Thị Kiều Tr 02 (hai) năm tù. Tổng hợp với hình phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù tại Bản án số 47/2019/HSST ngày 21/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 19/11/2019 đến ngày 25/11/2019.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Buộc bị cáo Lương Thị Kiều Tr bồi thường cho bị hại tổng số tiền là 16.470.000 đồng (mười sáu triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng), bao gồm:

Bồi thường cho bà Nguyễn Ngọc Y số tiền 14.470.000 đồng (mười bốn triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng). Khấu trừ số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) theo văn bản Ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử ngày 02/3/2020 giữa Công an huyện Phú Giáo và Kho bạc Nhà nước huyện Phú Giáo, đơn vị nhận tiền là Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo, bị cáo Tr phải bồi thường tiếp cho bà Y số tiền 4.470.000 đồng (bốn triệu bốn trăm bảy mươi ng n đồng);

Bồi thường cho bà La Thị L số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thi hành xong số tiền phải thi hành thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

4. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46 Bộ luật Hình sự và Điều 106  Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trả cho bị cáo Lương Thị Kiều Tr 01 (một) nón bảo hiểm không nhãn hiệu, màu xanh dương có vành  lưỡi trai, phía sau nón có hình con chó, phía sau bên phải nón có hình nhãn mác ghi dòng chữ “Tri Lieo”; 01 áo khoác nữ màu cam nhãn hiệu T$A fashion trên ngực trái áo có logo ghi dòng chữ “FASHION WEAR VOGOE”; 01 chứng minh nhân số 281292077 cấp ngày 06/3/2017 mang tên Lương Thị Kiều Tr.

Trả cho bà Nguyễn Thị D 01 (một) xe mô tô biển số 93P1 – 94259, nhãn hiệu Yamaha Sirius màu sơn đen, đỏ, bạc, số khung RLCS 5C6207Y018534, số máy 5C62018534.

Trả cho ông Cao Đình B 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 93P1 – 94259 số 029579 mang tên Cao Đình B.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 07 tháng 02 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo).

5. Về án sơ thẩm: Áp dụng các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015, Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/PL/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án buộc: Bị cáo Lương Thị Kiều Tr phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 823.500 đồng (tám trăm hai mươi ba ngàn năm trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2020/HS-ST ngày 10/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:09/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;