Bản án 09/2020/HS-PT ngày 08/09/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 09/2020/HS-PT NGÀY 08/09/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 08 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh K T xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 19/2020/TLPT-HS ngày 29/7/2020 đối với bị cáo Đặng Văn T, do có kháng cáo của bị cáo Đặng Văn Tấp đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 08/2020/HS-ST ngày 26/06/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ T, tỉnh K T.

- Bị cáo có kháng cáo: Đặng Văn T, sinh năm 1975 tại tỉnh T Q; trú tại: Thôn Y D, xã Y X, huyện S T, tỉnh K T; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn G (đã chết) và bà Đặng Thị B vợ là Phan Thị Kim L và có 03 con, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Bản án số 400/2014/HSPT ngày 01/12/2014 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng, xử phạt Đặng Văn T 5 tháng tù về tội Đánh bạc, theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án (chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/6/2015; đã nộp án phí hình sự sơ thẩm, phúc thẩm và nộp tiền phạt theo Biên lai thu tiền nộp ngân sách nhà nước ngày 07/5/2015 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/11/2019 đến ngày 13/11/2019, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 03/11/2019, Trần Đình Quỳnh E, Đặng Văn T, Hoàng Công Nh, Nguyễn Văn L, Trương Thị M, Võ Đình Th, Nguyễn Thị Kim L, Huỳnh Ngọc V, Trương Công T, Lê Đình Ph theo sự chỉ dẫn của một đối tượng được gọi là bộ đội (chưa xác định được lai lịch) đi từ thị trấn PK, huyện Ng H đến bờ sông P thì được hai người dùng thuyền (chưa xác định được lai lịch) đưa qua sông, đến một bãi đất trống thuộc địa phận xã Đ R Ng, huyện Đ T, tỉnh K T đã được căng bạt che và bật đèn chiếu sáng từ bình ắc quy để đánh bạc dưới hình thức chơi xóc đĩa. Nguyễn Thị Kim L đến để bán nước và đồ ăn cho các đối tượng đánh bạc. Khoảng hơn 21 giờ, trong lúc chờ đủ người để chơi xóc đĩa, một đối tượng tên L đen (chưa xác định được lai lịch) sử dụng điện thoại của Trần Đình Quỳnh E có cài đặt ứng dụng chơi bầu cua để chơi bầu cua. Các bị cáo Trần Đình Quỳnh E, Đặng Văn T, Hoàng Công Nh, Nguyễn Văn L, Trương Thị M, Võ Đình Th cùng nhau chơi đánh bạc dưới hình thức xóc bầu cua trên ứng dụng điện thoại. Nhân và Long tham gia chơi sau.

Hình thức xóc bầu cua là trên điện thoại hiển thị 06 hình gồm: Bầu, cua, tôm, cá, gà, nai. Người chơi muốn đặt tiền vào hình nào thì hô tên hình đó. Người xóc (người làm cái) bấm nút “xóc”, trên ứng dụng điện thoại sẽ xuất hiện 03 hình ngẫu nhiên trong số 6 hình nói trên (có thể trùng nhau). Nếu hình hiện lên trùng với hình mà người chơi đặt thì người làm cái phải trả tiền cho người chơi, hai hoặc ba hình trùng nhau thì người làm cái phải trả gấp 02 hoặc 03 lần số tiền người chơi đã đặt. Nếu hình hiện lên không trùng với hình mà người chơi đã đặt thì người làm cái sẽ lấy số tiền đó. Ngoài ra, trong quá trình chơi, những người chơi có thể dời vị trí đặt cược để tự đánh bạc với nhau. Mỗi ván các bị cáo đặt từ 10.000 đồng đến 50.000 đồng.

Sáu bị cáo đánh bạc đến khoảng 22 giờ 30 phút thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ T bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc số tiền 4.993.000 (bốn triệu chín trăm chín mươi ba nghìn) đồng và thu giữ 10.000.000 (mười triệu) đồng trên người của các bị cáo mang theo dùng vào mục đích đánh bạc, gồm có: Võ Đình Th 550.000 đồng; Trương Thị M 1.100.000 đồng; Nguyễn Văn L 120.000 đồng; Đặng Văn Tấp 30.000 đồng; Hoàng Công Nh 8.200.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 14.993.000 (mười bốn triệu chín trăm chín mươi ba nghìn) đồng.

Với nội dung trên tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 08/2020/HS-ST ngày 26/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Đặng Văn T; Trần Đình Quỳnh E; Hoàng Công Nh;

Trương Thị M; Nguyễn Văn L; Võ Đình Th phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn T 7 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 04/11/2019 đến ngày 13/11/2019.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trần Đình Quỳnh E 7 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 04/11/2019 đến ngày 13/11/2019.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Hoàng Công Nh 7 (bảy) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày t uyên án 26/6/2020.

Giao bị cáo Hoàng Công Nhân cho Ủy ban nhân dân thị trấn P K, huyện Ng H, tỉnh K T giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Xử phạt bị cáo Trương Thị M 6 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng. Thờ i hạn thử thách tính từ ngày tuyên án 26/6/2020.

Giao bị cáo Trương Thị Mỹ cho Ủy ban nhân dân phường Lê Lợi, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 6 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án 26/6/2020.

Giao bị cáo Nguyễn Văn L cho Ủy ban nhân dân xã Kroong, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Xử phạt bị cáo Võ Đình Th 6 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án 26/6/2020.

Giao bị cáo Võ Đình Th cho Ủy ban nhân dân phường Tr H Đ, thành phố K T, tỉnh K T giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 08/7/2020, bị cáo Đăng Văn T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo với lý do: bị cáo có con nhỏ thường xuyên đau ốm cần phải điều trị, gia đình khó khăn, có công với các mạng, bản thân bị cáo là lao động chính trong gia đình.

Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo cung cấp thêm Bằng khen, Giấy khen của UBND tỉnh K T, UBND thị trấn S Th khen thưởng bị cáo có thành tích xuất sắc trong quá trình bị cáo làm tiểu đội trưởng lực lượng dân quân tự vệ xã Y X, huyện S Th, tỉnh K T và trong phong trào phòng chống tội phạm vượt biên trái phép và 01 đơn xin xác nhận về hoàn cảnh gia đình khó khăn con bị bệnh nặng, vợ thường xuyên đau ốm, bị cáo là lao động chính trong gia đình có xác nhận của UBND xã Y X, huyện S Th, tỉnh K T.

- Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố phát biểu quan điểm như sau:

Trong quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thực hiện đúng quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng; Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng quy định pháp luật.

Quan điểm giải quyết vụ án: Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo Đặng Văn T cung cấp thêm Bằng khen và các Giấy khen của UBND tỉnh K T, UBND thị trấn S khen thưởng bị cáo đã có thành tích xuất sắc trong quá trình bị cáo làm tiểu đội trưởng lực lượng dân quân tự vệ xã Y X, huyện Sa Thầy, tỉnh K T và trong phong trào phòng chống tội phạm vượt biên trái phép và cung cấp 01 đơn xin xác nhận về hoàn cảnh gia đình khó khăn con bị bệnh nặng, vợ thường xuyên đau ốm, bị cáo là lao động chính trong gia đình có xác nhận của UBND xã Yaxier, huyện Sa Thầy, tỉnh K T. Do đó, đề nghị chấp nhận các tình tiết giảm nhẹ mới nêu trên tại cấp phúc thẩm mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng được quy định tại điểm v khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo Đặng Văn T đã từng bị xét xử về tội “Đánh bạc” nhưng đã được xóa án tích, tính chất, mức độ của lần phạm tội này được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và bị cáo chỉ là đồng phạm có vai trò không đáng kể; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 321; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015: Chấp nhận phần kháng cáo xin được hưởng án treo và giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo Đặng Văn T; sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2020/HS-ST ngày 26/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ T, tỉnh K T; xử phạt bị cáo 07 (bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

- Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đặng Văn T vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Bị cáo Đặng Văn T kháng cáo trong thời hạn quy định tại Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự là đúng quy định. Do đó, kháng cáo của bị cáo được chấp nhận xem xét.

[2]. Về nội dung: Khoảng 21 giờ ngày 03/11/2019, tại địa phận xã Đ R Ng, huyện Đ T, tỉnh K T các bị cáo Đặng Văn T, Trần Đình Quỳnh E, Hoàng Công Nh, Nguyễn Văn L, Trương Thị M, Võ Đình Th đã tham gia đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức xóc bầu cua trên ứng dụng điện thoại do tên L đen làm cái (không có thu tiền xâu). Đến khoảng 22 giờ 30 phút thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk Tô bắt quả tang, thu giữ tại chiếu bạc số tiền 4.993.000 đồng, thu trên người của các bị cáo số tiền dùng để đánh bạc là 10.000.000 đồng. Tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 14.993.000 (Mười bốn triệu chín trăm chín mươi ba nghìn) đồng; trong đó thu giữ trên người bị cáo tấp số tiền đánh bạc là 30.000 đ (Ba mươi nghìn đồng). Với hành vi trên, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Đánh bạc”, quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo Đặng Văn T, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Trong vụ án này, các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, cùng tham gia đánh bạc với vai trò là người thực hành. Bị cáo Đặng Văn T đóng vai trò thứ yếu, số tiền dùng để đánh bạc thu được trên người bị cáo rất ít là 30.000 đồng; trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân. Tuy các bị cáo có ít tình tiết giảm nhẹ hơn so với các bị cáo khác, nhưng xét vai trò, tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo là nhỏ hơn rất nhiều so với các bị cáo khác như Hoàng Công Nh, Trương Thị M. Do đó, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Đặng Văn T 07 (bảy) tháng tù là có phần nghiêm khắc, chưa phân hóa được trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo trong vụ án này.

Mặt khác, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm Bằng khen của UBND tỉnh Kon Tum và các Giấy khen của UBND huyện Sa Thầy khen thưởng bị cáo vì có thành tích xuất sắc trong quá trình bị cáo làm tiểu đội trưởng lực lượng dân quân tự vệ xã Y X, huyện S Th, tỉnh Kon Tum, trong công tác truy quét ngăn chặn tội phạm vượt biên trái phép và cung cấp 01 đơn xin xác nhận của UBND xã Y X, huyện S Th về hoàn cảnh gia đình khó khăn, con bị cáo bị bệnh nặng, vợ thường xuyên đau ốm, bị cáo là lao động chính trong gia đình.

Đây là tình tiết giảm nhẹ mới tại cấp phúc thẩm mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định xem xét áp dụng tình tiết nêu trên được quy định tại điểm v khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đặng Văn T.

Đối với lý do kháng cáo của bị cáo cho rằng bị cáo thuộc gia đình có công với cách mạng vì có chú ruột Đặng Văn K là liệt sỹ. Qua phân tích, đánh giá, Hội đồng xét xử thấy rằng đây không phải là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Do đó, không áp dụng tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo.

Xét thấy, bị cáo Đặng Văn Tấp tuy đã từng bị xét xử về tội “Đánh bạc” nhưng đã được xóa án tích từ lâu, tính chất, mức độ của lần phạm tội này được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và bị cáo chỉ là đồng phạm có vai trò không đáng kể; bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số cư trú tại xã a X thuộc vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, sau khi phạm tội biết ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, xét không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội mà chỉ cần cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe các bị cáo trở thành công dân tốt, sống có ích cho xã hội, phù hợp với Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo Đặng Văn T; sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 08/2020/HS-ST ngày 26/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ T, tỉnh Kon Tum.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, HĐXX không đề cập xem xét.

[5] Về án phí:

Về án phí hình sự sơ thẩm: Thấy rằng, bị cáo Đặng Văn T là người đồng bào dân tộc thiểu số (dân tộc Dao) ở xã Y X, huyện S T là xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thuộc trường hợp được miễn nộp tiền án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Như vậy, cấp sơ thẩm buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm là chưa phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định sửa phần án phí của bản án sơ thẩm; miễn toàn bộ án phí sơ thẩm là 200.000 đồng cho bị cáo Đặng Văn T.

Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo Đặng Văn T được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo Đặng Văn T.

Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2020/HS-ST ngày 26/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ T, tỉnh K T.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn T 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 (Mười hai) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (08/9/2020).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Y X, huyện S Th, tỉnh K T để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135; 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 3; Điều 6; điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 21; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Miễn số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Đặng Văn T; bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (08/9/2020)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2020/HS-PT ngày 08/09/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:09/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;