Bản án 09/2020/HNGĐ-ST ngày 22/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 09/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, mở phiên tòa xét xử công khai vụ án thụ lý số: 229/2019/TLST-HNGĐ ngày 23/10/2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24/02/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2020/QĐST-HNGĐ ngày 06/5/2020 giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Chị Võ Thị L, địa chỉ: Đội 3, thôn L, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

2/ Bị đơn: Anh Lê Đức N, địa chỉ: Thôn L, xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn ngày 21/10/2019, bản tự khai ngày 08/11/2019 cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Võ Thị L đều trình bày: Chị và Anh Lê Đức N trước đây yêu nhau và kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã A vào ngày 21/6/2013. Sau đó vợ chồng chung sống với nhau cùng gia đình bố mẹ anh N, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 01 năm thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân, do anh N không chịu khó làm ăn, thường xuyên ăn chơi, nhậu nhẹt với bạn bè không quan tâm gia đình, vợ, con. Nhiều lần chị đã góp ý, động viên anh N tu chí làm ăn, quan tâm xây dựng gia đình nhưng không có kết quả. Anh N vẫn theo lối sống riêng mình, vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên gây gổ lẫn nhau, anh N nóng nảy vô cớ đã hành động bạo lực, đánh đập chị làm cho mâu thuẫn ngày càng căng thẳng hơn nên chị đã về nhà bố mẹ chị sống từ tháng 7 năm 2018 cho đến nay, không ai còn quan tâm gì đến ai nữa, chị L xác định tình cảm vợ chồng thực sự đã hết và yêu cầu được ly hôn anh N.

Bị đơn anh Lê Đức N vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai cũng như các phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được tống đạt hợp lệ.

Con chung: Chị Võ Thị L trình bày qua đơn ly hôn và bản tự khai: Chị và anh N có một con chung Lê Võ Quỳnh N, sinh ngày 17/11/2013. Từ khi sinh con đến nay, một mình chị nuôi con. Sau khi ly hôn, chị xin được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con nhưng tại phiên tòa, được Hội đồng xét xử phân tích quyền lợi về mọi mặt của con nên chị L thay đổi yêu cầu: Vì tương lai lâu dài của con, đồng thời anh N lao động có thu nhập từ nghề đầu bếp nên chị yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Tài sản chung: Chị L trình bày: Vợ, chồng không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả hỏi và tranh luận tại phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bị đơn anh Lê Đức N đã được Tòa án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập và quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị L và anh Lê Đức N đăng ký kết hôn với nhau ngày 21/6/2013 tại UBND xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng hạnh phúc chỉ được thời gian ngắn đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp; anh N thiếu quan tâm vợ, con, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải vã, xích mích, đánh đập nhau làm mất mát tình cảm. Chị L cũng như gia đình hai bên đã vận động, góp ý mong rằng anh N thay đổi nhưng không có kết quả nên chị L đã về nhà bố mẹ mình sống từ tháng 7/2018 cho đến nay, không ai còn quan tâm gì đến ai nữa. Hiện tại chị L xác định tình cảm vợ chồng thực sự đã hết và yêu cầu được ly hôn anh N.

Anh N đã được Tòa án thông báo các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần, kể cả phiên tòa lần thứ hai được tống đạt hợp lệ nhưng anh N vẫn vắng mặt không có lý do. Qua xác nhận của Công an xã S, anh Lê Đức N vắng mặt tại địa phương từ giữa tháng 11/2019 cho đến nay. Gia đình anh N cho biết, anh Lê Đức N đang làm ăn ở thành phố Đà Nẵng, không rõ địa chỉ cụ thể, từ khi đi đến nay chưa về lại địa phương. Qua đó, chứng tỏ, sau khi nhận được thông báo thụ lý vụ án và thông báo kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hòa giải lần đầu (sau khi thụ lý vụ án) của Tòa án nhưng cố tình không chấp hành, lại bỏ đi làm ăn xa, thể hiện không quan tâm việc bảo vệ hạnh phúc gia đình và không tha thiết hàn gắn tình cảm với chị L nữa.

Xét thấy, tình trạng vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử cho hai bên ly hôn nhau là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung: Chị L, anh N có một con chung Lê Võ Quỳnh N, sinh ngày 17/11/2013, ly hôn chị L yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con, yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng. Anh N vắng mặt tại phiên tòa nên không thể hiện ý chí nguyện vọng gì về con, Hội đồng xét xử thấy, yêu cầu của chị L là chính đáng nên cần chấp nhận để giao con cho chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, buộc anh N cấp dưỡng hàng tháng với mức 1.000.000 đồng là phù hợp với các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3]. Tài sản chung: Không có, chị L không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4]. Về án phí: Chị L, anh N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình: Xử cho chị Võ Thị L và anh Lê Đức N được ly hôn nhau.

2. Về con chung: Áp dụng các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: Xử giao cho chị Võ Thị L được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con Lê Võ Quỳnh N, sinh ngày 17/11/2013, anh N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng, kể từ tháng 5 năm 2020 cho đến khi con tròn 18 tuổi. Anh N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thủy theo biên lai số: 0005893 ngày 23/10/2019. Chị L đã nộp đủ án phí. Anh N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm của người có nghĩa vụ cấp dưỡng 300.000 đồng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Chị Võ Thị L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (22/5/2020), anh Lê Đức N được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2020/HNGĐ-ST ngày 22/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:09/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;