Bản án 09/2020/HNGĐ-ST ngày 17/06/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 09/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/06/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 17 tháng 6 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 109/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 109/2020/QĐST-HNGĐ ngày 26/5/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1990; (có mặt) Địa chỉ: xã NH, huyện C, tỉnh G

Bị đơn: anh Đặng Minh Đ, sinh năm: 1985; (vắng mặt) Địa chỉ: xã NH, huyện C, tỉnh G

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 05/12/2019, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Đặng Minh Đ kết hôn với nhau năm 2010 có đăng ký kết tại Ủy ban nhân dân xã NH, huyện C, tỉnh G, tự nguyện không ai ép buộc. Sau khi kết hôn anh chị sống hạnh phúc được một thời gian đến năm 2018 thì vợ chồng xẩy ra mâu thuẫn thường xuyên cãi nhau, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do anh Đ không chung thủy với vợ, ngoại tình với người phụ nữ khác, gia đình hai bên nhiều lần khuyên giải nhưng anh Đ vẫn không thay đổi. Vợ chồng chị đã sống ly thân từ tháng 12/2018 đến nay, không còn quan hệ tình cảm kinh tế với nhau nữa, không ai quan tâm đến ai, mặc dù sống ly thân nhưng chị L vẫn sống chung với bố mẹ chồng, anh Đ thỉnh thoảng có về nhà nhưng vợ chồng không khắc phục được, có lần anh Đ cầm dao đe dọa chị L, khiến chị lúc nào cũng lo sợ đến tính mạng, chị L đã nhờ công an xã Nghĩa Hưng can thiệp nhưng anh Đ không thay đổi. Nay chị L xét thấy không còn tình cảm yêu thương anh Đ nữa, nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: chị L và anh Đ có 02 con chung: Đặng Thị Tâm Đ1, sinh ngày 02/3/2017; Đặng Thị Như Đ2, sinh ngày 05/9/2018. Ly hôn chị L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả hai con chung, chị làm nghề buôn bán thu nhập khoảng 8.000.000đồng/tháng, đảm bảo để nuôi các con ăn học đầy đủ.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và các nghĩa vụ chung khác: chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: chị L tự nguyện chịu toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.

Bị đơn: anh Đặng Minh Đ:

Sau khi thụ lý vụ án số: 109/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2019 đối với yêu cầu xin ly hôn, nuôi con của chị L, Tòa án đã triệu tập và tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng cho anh Đ, anh Đ không nhận và không chịu đến Tòa để giải quyết, cố tình trốn tránh, không chấp hành pháp luật.

Vì vậy, căn cứ vào các Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự,Tòa án nhân dân huyện Chư Păh xét xử vắng mặt bị đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai phát biểu ý kiến: Từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm xét xử vụ án thì Thẩm phán, thư ký và những người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với anh Đặng Minh Đ đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng cố tình trốn tránh, không chịu đến Tòa án để giải quyết vụ án, chứng tỏ anh Đ không có ý muốn hàn gắn tình cảm với chị L. Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị L được ly hôn với anh Đ. Giao 02 con chung là Đặng Thị Tâm Đoan, sinh ngày 02/3/2017; Đặng Thị Như Ý, sinh ngày 05/9/2018 cho chị L trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên có khả năng lao động hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Về cấp dưỡng nuôi con: chị L không có yêu cầu gì nên không xem xét. Chị L phải chịu 300.000đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai theo quy định khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với sự vắng mặt của bị đơn: Anh Đặng Minh Đ đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn cố tình vắng mặt nên xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về yêu cầu xin ly hôn với anh Đặng Minh Đ của chị Nguyễn Thị L thì Hội đồng xét xử thấy rằng: chị L và anh Đ có đăng ký kết hôn với nhau vào năm 2010, việc kết hôn của anh chị là hoàn toàn tự nguyện nên đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Trong quá trình chung sống chị L và anh Đ đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, hay cãi nhau. Vợ chồng chị đã ly thân nhau từ tháng 12/2018 đến nay không còn quan hệ tình cảm, kinh tế với nhau, mỗi người tự lo cuộc sống riêng, không ai còn quan tâm đến ai. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn yêu thương nhau, mục đích hôn nhân không đạt, cuộc sống chung không thể kéo dài, nên chị L làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ, xét yêu cầu này của chị L là chính đáng và phù hợp với các quy định của pháp luật. Anh Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa để làm việc và hòa giải đoàn tụ gia đình, chứng tỏ anh Đ không muốn hàn gắn tình cảm với chị L. Căn cứ vào quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cẩu của chị L cho chị L được ly hôn với anh Đ.

[3] Về con chung: Chị L và anh Đ có 02 con chung: Đặng Thị Tâm Đ, sinh ngày 02/3/2017; Đặng Thị Như Đ2, sinh ngày 05/9/2018. Ly hôn chị L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả hai con. HĐXX thấy rằng hiện tại cả hai con đang sống cùng chị L, anh Đ không quan tâm, không chu cấp gì cho chị L để chị nuôi con, nhưng chị vẫn đảm bảo nuôi con tốt, chị L làm nghề buôn bán thu nhập khoảng 8.000.000đồng/tháng đảm bảo để nuôi các con ăn học, hơn nữa các con của chị L đều còn nhỏ và là con gái, chị L chăm sóc nuôi con là phù hợp. Vì vậy, ly hôn chị L yêu cầu được nuôi hai con Đặng Thị Tâm Đ1; Đặng Thị Như Đ2 là phù hợp pháp luật, xét thấy yêu cầu của chị L được nuôi con là có cơ sở và phù hợp pháp luật, nên được chấp nhận. Sau này anh Đ có yêu cầu nuôi con thì được giải quyết bằng vụ kiện khác.

[4]Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không xem xét.

[5] Về tài sản chung và các nghĩa vụ chung khác: chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí: Căn cứ vào Điều 146, 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và theo quy định tại Điều 27 của Nghị quyết về án phí, lệ phí Tòa án số:

326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự và các Điều 51, 53, 56, 57 Luật hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị L.

- Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Đặng Minh Đ.

2/ Áp dụng Điều 69, 71, 72, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Giao con Đặng Thị Tâm Đ1, sinh ngày 02/3/2017; Đặng Thị Như Đ2, sinh ngày 05/9/2018 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên có khả năng lao động hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị L không yêu cầu anh Đặng Minh Đ phải cấp dưỡng nuôi con cho chị L.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

3/ Áp dụng điều 146; 147 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc chị Nguyễn Thị L phải nộp: 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), tiền án phí ly hôn sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng chị Nguyễn Thị L đã nộp tạm ứng án phí trước đây theo biên lai số: 0002750 ngày 06/12/2019 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai (chị Nguyễn Thị L đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định) Báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (17/6/2020) lên Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai để xin xét xử phúc thẩm.

Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết công khai bản án tại UBND xã, phường nơi cư trú cuối cùng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2020/HNGĐ-ST ngày 17/06/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:09/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;