Bản án 09/2020/HNGĐ-ST ngày 15/06/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SA ĐÉC - TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 09/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong các ngày 25 tháng 5 năm 2020 và ngày 15 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 339/2019/TLST-HNGĐ, ngày 03 tháng 12 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 06 tháng 5 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số: 02/2020/QĐST- HNGĐ, ngày 25 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị N - sinh năm: 1993.

Đa chỉ: ấp T, xã D, huyện V, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Anh T - sinh năm: 1991.

Đa chỉ:, khóm M, Phường B, TP S, tỉnh Đồng Tháp.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa; bị đơn vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Quá trình tham gia tố tụng tại tòa án, nguyên đơn là chị N trình bày:

- Về hôn nhân: Chị N và anh T tự nguyện tìm hiểu nhau gần một năm thì tiến tới hôn nhân, có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Dương, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 19/02/2014.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc; đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, do anh T sinh tật cờ bạc, thường xuyên tụ tập bạn bè ăn chơi, không lo làm ăn, bỏ bê gia đình, không quan tâm gì đến gia đình con cái, mọi chi phí sinh hoạt trong gia đình đều do chị N lo. Chị N cũng đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng không có kết quả; thậm chí anh T ngày càng lún sâu hơn. Khoảng tháng 02 năm 2018, chị N đã bỏ lên thành phố Hồ Chí Minh làm việc; vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị N nhận thấy tình cảm không còn, vợ chồng không thể hàn gắn trở lại chung sống. Do đó, chị N yêu cầu ly hôn anh T.

Tại phiên tòa, chị N xác định không còn tình cảm với anh T, cuộc sống hôn nhân với anh T không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị N thiết tha yêu cầu được ly hôn anh T.

- Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên Q - sinh ngày: 23/3/2014 (hiện đang sống với anh T). Khi ly hôn, chị N đồng ý để con chung cho anh T nuôi dưỡng; chị N tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu Q đủ 18 tuổi.

- Về chia tài sản chung và nợ chung: Chị N xác định là không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Quá trình tham gia tố tụng tại tòa án, bị đơn là anh T vắng mặt không lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến: Mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật nhưng anh T không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đồng thời, Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập cho anh T nhiều lần nhưng anh T vẫn không đến Tòa án để tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và không tham gia phiên tòa theo quy định.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:

- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Quá trình tiến hành tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử và tại phiên tòa hôm nay; Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa cũng như các đương sự đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; riêng bị đơn là anh Lâm Hồng Thương không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đại diện Viện kiểm sát thống nhất với trình tự thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử vắng mặt bị đơn là anh T.

- Về hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N. - Về nuôi con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên giao cháu Q- sinh ngày: 23/3/2014, hiện đang sống chung với anh T cho anh T được tiếp tục nuôi dưỡng con chung sau ly hôn. Chị N có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con chung, không ai được cản trở.

- Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện của chị N về việc đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.000.000 đồng cho đến khi cháu Q đủ 18 tuổi.

- Về chia tài sản chung và nợ chung: Do chị N xác định là không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn là chị N khởi kiện yêu cầu ly hôn anh T là loại vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Quá trình tham gia tố tụng: Bị đơn là anh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật nhưng vẫn vắng mặt không có lý do; do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh T.

[2] Về nội dung, Hội đồng xét xử xét thấy:

- Về hôn nhân: Chị N và anh T chung sống vợ chồng từ năm 2014, trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn vào ngày 19/02/2014 tại UBND xã Tân Dương, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh T được xác định là hôn nhân hợp pháp.

Tuy nhiên, trong quá trình chung sống, giữa chị N và anh T đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cự cãi gây gổ nhau, nguyên nhân là do anh T cờ bạc, thường xuyên tụ tập bạn bè ăn chơi, không lo làm ăn, bỏ bê gia đình, không quan tâm gì đến vợ và con, mọi chi phí sinh hoạt trong gia đình đều do chị N lo. Chị N cũng đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh T không nghe, không chịu sửa đổi mà ngày càng lún sâu hơn vào cờ bạc, ăn chơi. Anh T sống không có trách nhiệm làm chồng, làm cha. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 02 năm 2018 đến nay; anh T cũng không tới lui, không liên lạc điện thoại thăm hỏi hay quan tâm gì đến chị N. Anh T không có ý định hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Tại phiên tòa, chị N xác định không còn tình cảm với anh T, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, cuộc sống hôn nhân với anh T không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị N không thể tiếp tục chung sống với anh Thương; trường hợp Tòa án không cho chị N ly hôn anh T thì chị N cũng không trở về sống chung với anh T. Chị N thiết tha yêu cầu xin được ly hôn anh T.

Về phía anh T: Quá trình tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử, anh T đã được Tòa án tống đạt, niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng anh T không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị N, không đến tham dự các buổi hòa giải cũng như phiên tòa hôm nay. Như vậy, anh T đã từ chối các quyền và nghĩa vụ của mình do pháp luật quy định. Bản thân anh T cũng không mong muốn hàn gắn tình cảm với chị N nên đã không đến Tòa án để tham gia hòa giải, không cung cấp tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được…”.

Trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử xét thấy: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị N và anh T đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không có sự thương yêu, quan tâm lẫn nhau. Giữa chị N và anh T cũng không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đồng thời, quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án từ khi thụ lý vụ án đến nay, anh T đều cố tình không đến Tòa án để tham gia hòa giải, xét xử cũng không có văn bản ý kiến, trình bày gì đối với yêu cầu xin ly hôn của chị N; từ đó cho thấy bản thân anh T cũng không có thành ý muốn hòa giải, đoàn tụ tiếp tục chung sống với chị Như. Nếu chị N và anh T đoàn tụ tiếp tục chung sống vợ chồng thì cũng không có hạnh phúc. Do đó, xét thấy việc chị N yêu cầu ly hôn anh Tg là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về nuôi con chung: Khi ly hôn, chị N có yêu cầu được giao con chung tên Q - sinh ngày: 23/3/2014 (hiện đang sống với anh T) cho anh T được tiếp nuôi dưỡng.

Xét thấy, hiện cháu Q đang có cuộc sống ổn định với anh T và được gia đình bên nội quan tâm, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi trong quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và dành nhiều tình thương cho cháu. Mặc khác, hiện chị N đang đi làm ăn xa, ít có điều kiện, thời gian chăm sóc cho cháu Quý nên đã tự nguyện giao con cho anh T nuôi dưỡng. Vì vậy, để đảm bảo cho cháu Q có cuộc sống ổn định và phát triển tốt về tâm sinh lý. Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao cháu Q cho anh T trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung sau khi ly hôn là phù hợp với quy định của pháp luật và bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của cháu Q trong sinh hoạt, học tập. Chị N được quyền tới lui thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

Tại khoản 1, khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, ...

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

- Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Về phía anh T không có văn bản ý kiến trình bày yêu cầu về việc cấp dưỡng nuôi con chung; Tuy nhiên qua quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị N có yêu cầu được tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu Q đủ 18 tuổi. Xét thấy sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn của chị N là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật và đảm bảo quyền lợi của cháu Q nên Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện của chị N.

- Về chia tài sản chung và nợ chung: Chị N xác định là không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị N phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn và cấp dưỡng nuôi con chung) theo quy định của pháp luật.

[4] Đối với ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 147 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên Xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N. Cho chị N ly hôn anh T.

2. Về nuôi con chung: Anh T được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung tên Q - sinh ngày: 23/3/2014 (hiện đang sống với anh T). trở.

- Chị N có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con chung, không ai được cản 3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị N cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.000.000 (Một triệu) đồng. Thời gian cấp dưỡng được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu Q đủ 18 tuổi.

4. Về chia tài sản chung và nợ chung: Tòa án không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Chị N nộp 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn) và 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm (về cấp dưỡng nuôi con chung). Số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng, chị N đã nộp ngày 03/12/2019 theo biên lai thu số 0004338 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sa Đéc được khấu trừ vào tiền án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn) phải nộp. Chị N còn phải nộp thêm 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm (về cấp dưỡng nuôi con) tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Lâm Hồng Thương vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo luật định./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2020/HNGĐ-ST ngày 15/06/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:09/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sa Đéc - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;