Bản án 09/2020/HNGĐ-ST ngày 06/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 09/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/06/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 50/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 413/2020/QĐXX-ST ngày 08 tháng 5 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Thu H, sinh năm 1983; địa chỉ: Tổ L1, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

- Bị đơn: Anh Phan Văn T, sinh năm 1983; ĐKHKTT: Tổ H1, phường N, quận K, thành phố Hải Phòng; hiện đang bị giam giữ tại Trại tạm giam C (địa chỉ: Q10, thành phố Hồ Chí Minh); vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong Đơn khởi kiện về việc xin ly hôn ghi ngày 21-02-2020, các Bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Bùi Thị Thu H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân, chị kết hôn với anh Phan Văn T trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, quận K, thành phố Hải Phòng vào ngày 09 tháng 6 năm 2004. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống tại tổ H1, phường N, quận K, thành phố Hải Phòng. Vợ chồng chung sống được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do đôi bên không hợp nhau về tính cách, tâm lý và bất đồng trong quan điểm sống. Đến tháng 9 năm 2009 do mâu thuẫn vợ chồng, chị H đã về nhà mẹ đẻ của chị H là bà Đặng Thị H ở tổ L1, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng sinh sống cho đến nay. Ngày 23-12-2015 anh T bị bắt giam về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, hiện tại anh T đang bị giam giữ tại Trại tạm giam C (địa chỉ: Q10, thành phố Hồ Chí Minh). Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng hàn gắn, đoàn tụ nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T. Về con chung: Anh chị có hai con chung là Phan Thị Huyền L, sinh ngày 08-11-2004 và Phan Thị Huyền N, sinh ngày 05-01-2007. Chị H đề nghị Tòa án giao hai con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng; về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị H không đề nghị Tòa án giải quyết; về tài sản chung, chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn là anh Phan Văn Thắng:

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhờ Trại tạm giam C tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án và ủy thác cho Tòa án nhân dân Q10, thành phố Hồ Chí Minh lấy lời khai của anh T. Tuy nhiên, tại Biên bản lấy lời khai ngày 24-4-2020 của Tòa án nhân dân Q10, thành phố Hồ Chí Minh, anh T không cung cấp lời khai, quan điểm, ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện xin ly hôn, nuôi con chung của chị H. Ngày 04-6-2020, Tòa án nhận được đơn đề nghị xét xử vắng mặt ghi ngày 22-5-2020 của anh T do Trại tạm giam C chuyển đến.

Tại phiên toà:

Hội đồng xét xử công bố lời khai của chị H có nội dung chị yêu cầu được ly hôn với anh Phan Văn T và đề nghị Tòa án giao hai con chung là Phan Thị Huyền L và Phan Thị Huyền N cho chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi các con chung đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung chị H không đề nghị Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử công bố các tài liệu chứng cứ do tòa án thu thập, các Biên bản xác minh của chính quyền địa phương nơi anh T và chị H cư trú, Biên bản lấy lời khai của đại diện gia đình anh T và chị H đều thể hiện nội dung như chị H cung cấp.

Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa về việc tuân theo pháp luật tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn đang bị giam giữ tại Trại tạm giam C nên không thể có mặt tại Tòa án để tham gia tố tụng được, tuy nhiên ngày 22/5/2020 anh T đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, như vậy anh T đã tuân thủ đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại 70 và 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung giải quyết: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, xử: Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, đề nghị xử cho chị Bùi Thị Thu H được ly hôn anh Phan Văn T; về con chung: Đề nghị giao hai con chung là Phan Thị Huyền L, sinh ngày 08-11-2004 và Phan Thị Huyền N, sinh ngày 05-01-2007 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con chung đủ 18 tuổi; việc cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung, chị H và anh T đều không yêu cầu giải quyết nên đề nghị không xem xét; về án phí: Chị Bùi Thị Thu H phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, Tòa án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật có tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Bùi Thị Thu H có Đơn khởi kiện (Về việc xin ly hôn) với anh Phan Văn T và đề nghị giải quyết việc nuôi con. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh Phan Văn T là bị đơn trong vụ án có địa chỉ đăng ký thường trú tại tổ H1, phường N, quận K, thành phố Hải Phòng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận K theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Thủ tục giải quyết vụ án: Nguyên đơn là chị Bùi Thị Thu H có đơn xin xử vắng mặt; bị đơn là anh Phan Văn T đã được Toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng do anh T đang bị giam giữ tại Trại tạm giam C và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của đương sự, căn cứ vào chứng cứ do đương sự cung cấp và các chứng cứ do Toà án thu thập đã có đủ cơ sở xác định chị Bùi Thị Thu H kết hôn với anh Phan Văn T trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại phường N, quận K, thành phố Hải Phòng ngày 09-6-2004 (Chứng nhận kết hôn số 32, quyển số 01/2004), đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống với nhau tại tổ H1, phường N, quận K, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do quan điểm sống của hai người không hợp nhau. Tháng 9 năm 2009 do mâu thuẫn vợ chồng, chị H đã về nhà mẹ đẻ của chị H là bà Đặng Thị H ở tổ L1, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng sinh sống cho đến nay. Ngày 23-12-2015 anh T bị bắt giam về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, hiện tại anh T đang bị giam giữ tại Trại tạm giam C (địa chỉ: Q10, thành phố Hồ Chí Minh). Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh T đã căng thẳng, trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ tháng 10 năm 2009, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của chị H đối với anh T là có căn cứ chấp nhận.

[4] Về việc nuôi con chung: Chị H và anh T có hai con chung là Phan Thị Huyền L, sinh ngày 08-11-2004 và Phan Thị Huyền N, sinh ngày 05-01-2007. Chị H có nguyện vọng được nuôi cả hai con chung. Hội đồng xét xử xét chị H có việc làm, thu nhập ổn định, đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục các con. Hiện tại các con chung đang ở cùng với chị H và gia đình bố mẹ chị H và được chăm sóc, nuôi dạy chu đáo. Gia đình chị H cam kết hỗ trợ, giúp đỡ về mọi mặt để tạo điều kiện cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Ngày 28/02/2020 hai con chung của chị H và anh T cũng có đơn đề nghị được ở với mẹ là chị Bùi Thị Thu H. Mặt khác, hiện tại anh T đang bị giam giữ tại Trại tạm giam nên không có điều kiện chăm sóc, nuôi dạy con chung. Xét quan điểm của chị H là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy đinh của pháp luật, phù hợp với thực tế và phù hợp với nguyện vọng của các con chung nên chấp nhận. Việc cấp dưỡng nuôi con chung chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Chị Bùi Thị Thu H và anh Phan Văn T đều không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Bùi Thị Thu H phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị Bùi Thị Thu H và anh Phan Văn T được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[8] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa là có cơ sở, hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 39 Bộ luật dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị Thu H được ly hôn với anh Phan Văn T.

2. Về việc nuôi con chung: Giao hai con chung là Phan Thị Huyền L, sinh ngày 08 tháng 11năm 2004 và Phan Thị Huyền N, sinh ngày 05 tháng 01 năm 2007 cho chị Bùi Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con chung đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi khác của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chung Tòa án không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Bùi Thị Thu H phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, chị H đã nộp số tiền tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0007542 ngày 28 tháng 02 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận K, thành phố Hải Phòng nên không phải nộp nữa.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Bùi Thị Thu H và anh Phan Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2020/HNGĐ-ST ngày 06/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:09/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;