Bản án 09/2020/DSST ngày 16/04/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa anh P và anh K

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 09/2020/DSST NGÀY 16/04/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN GIỮA ANH Ph VÀ ANH K

Ngày 16/4/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Phong mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản đã thụ lý số: 77/2019/TLST-DS, ngày 03/12/2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2020/QĐXXST-DS, ngày 28 tháng 02 năm 2020 giữa:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1974 (có mặt). Trú tại: Trần Xá, Yên Trung, Yên Phong, Bắc Ninh.

Bị đơn: Anh Cao Ngọc K, sinh năm 1973 (vắng mặt). Trú tại: Lương Tân, Yên Trung, Yên Phong, Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/11/2019 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là anh Nguyễn Văn Ph trình bày: Anh với anh K có mối quan hệ quen biết. Ngày 04/10/2018 (âm lịch) anh có cho anh K vay số tiền 500.000.000đ để anh K làm rác thải Samsung, thời hạn vay là 30 ngày, lãi suất do hai bên thoả thuận miệng là 1,5%/1 tháng.

Anh K nói sẽ thế chấp cho anh thửa đất số 242, tờ bản đồ 20, diện tích 290m2 tại thôn Lương Tân, xã Yên Trung, huyện Yên Phong và hứa nếu không trả được nợ thì anh K sẽ làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất trên cho anh. Anh K đưa cho anh bản phô tô Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 242, tờ bản đồ 20, diện tích 290m2 tại thôn Lương Tân, xã Yên Trung, huyện Yên Phong cho anh giữ. Anh K có hứa 5 ngày sau sẽ đưa sổ đỏ gốc thửa đất trên cho anh, vì hôm vay tiền sổ đỏ thửa đất trên anh K để trong két, vợ anh K không có nhà nên không lấy được.

Hết 1 tháng là đến hạn trả nợ, anh K không trả được nợ, cũng không làm thủ tục chuyển nhượng thửa đất đã thế chấp nêu trên cho anh. Anh đã đòi anh K nhiều lần nhưng anh K chỉ khất lần khất lượt. Từ khi vay anh K chưa trả cho anh được đồng tiền lãi nào. Ngày 01/6/2019 anh K đã trả cho anh được 8.000.000đ. Ngày 30 Tết năm 2019 âm lịch, tức ngày 24/01/2020 dương lịch anh K đã trả cho anh được 5.000.000đ.

Nay anh yêu cầu anh K phải có nghĩa vụ trả anh số tiền gốc là 487.000.000đ. Anh yêu cầu anh K phải trả lãi theo thỏa thuận là 1,5%/tháng, kể từ ngày 05/10/2018 âm lịch tức ngày 11/11/2018 dương lịch cho đến ngày xét xử.

Tòa án đã giao giấy triệu tập hợp lệ nhưng anh K vắng mặt không có lý do. Tòa án kết hợp cùng chính quyền địa Ph đến nhà anh K để tiến hành lấy lời khai, anh K có trình bày: Anh xác nhận năm 2018 có vay của anh Ph số tiền 500.000.000đ để làm ăn, vay có lãi, thời hạn 1 tháng. Tết năm 2019 anh đã trả một phần tiền cho anh Ph, anh Ph có hứa với anh là sẽ rút đơn khởi kiện, do vậy anh không lên làm việc.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong phát biểu ý kiến đã đánh giá việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư K phiên tòa là đúng pháp luật. Việc tuân theo pháp luật của nguyên đơn là đúng pháp luật. Bị đơn chấp hành không đúng pháp luật.

Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điều 26, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng điều 463, 466, 468, 470 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Nguyễn Văn Ph.

- Buộc anh Cao Ngọc K phải có nghĩa vụ trả cho anh Nguyễn Văn Ph số tiền gốc là 487.000.000đ và lãi là 0,83%/tháng theo từng thời điểm trả nợ cho đến khi xét xử.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại đơn khởi kiện anh Ph yêu cầu anh K phải trả số tiền gốc là 500.000.000đ và lãi. Đây là vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản và Tòa án nhân dân huyện Yên Phong đã thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3, điều 26; điều 35; điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét thấy, tại “Giấy vay tiền” đề ngày 04/10/2018 (âm lịch) đã thể hiện anh K có vay của anh Ph số tiền 500.000.000đ, mục đích kinh doanh, trong giấy vay tiền không ghi lãi suất, nhưng hai bên trình bày là vay có lãi, do vậy cần xác định đây là hợp đồng vay có lãi.

Trong giấy vay tiền có ghi anh K thế chấp nhà, đất tại thửa số 242, tờ bản đồ 20, diện tích 290m2 tại thôn Lương Tân, xã Yên Trung, huyện Yên Phong đứng tên anh K. Tuy nhiên các bên đã không tuân thủ đầy đủ các điều kiện về việc thế chấp được quy định tại các điều 317, 318, 320, 323 của Bộ luật dân sự năm 2015, do vậy việc thế chấp không có giá trị pháp lý nên không xem xét.

Ngày 01/6/2019 anh K đã trả cho anh Ph được 8.000.000đ. Ngày 24/01/2020 anh K đã trả cho anh Ph được 5.000.000đ, tổng là 13.000.000đ.

Do anh K không trả được nợ, anh Ph làm đơn khởi kiện yêu cầu anh K phải có nghĩa vụ trả nợ là có căn cứ chấp nhận.

Tòa án đã giao giấy triệu tập và các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng anh K đều vắng mặt không có lý do, không hợp tác và cố ý vắng mặt không có lý do. Việc anh K vắng mặt được coi là trường hợp cố tình trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện.

Nay anh Ph yêu cầu anh K phải có nghĩa vụ trả số tiền gốc 487.000.000đ là có căn cứ chấp nhận.

Anh Ph yêu cầu anh K phải trả lãi theo thỏa thuận là 1,5%/tháng, kể từ ngày 11/11/2018 (dương lịch) cho đến khi xét xử.

Xét thấy, đây là hợp đồng vay tài sản có lãi, có thời hạn. Đến hạn anh K không trả được nợ. Anh Ph yêu cầu trả lãi. Bởi vậy anh K phải trả lãi theo quy định của pháp luật.

Tại khoản 1, điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay…”.

Tại khoản 2, điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi thì lãi suất được xác định bằng 50% lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”.

Vì anh K trình bày vay có lãi, tuy nhiên không rõ lãi suất là bao nhiêu, anh Ph trình bày vay lãi 1,5%/tháng. Căn cứ khoản 2, điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 thì cần chấp nhận lãi suất = 50% lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1, điều 468 Bộ luật dân sự, tức 10%/năm là có căn cứ, cụ thể: Anh K phải trả lãi của số tiền gốc là 500.000.000đ kể từ ngày vay là ngày 11/11/2018 đến ngày 01/6/2019; trả lãi của số tiền gốc là 492.000.000đ kể từ ngày 02/6/2019 đến ngày 24/01/2020; trả lãi của số tiền gốc 487.000.000đ kể từ ngày 25/01/2020 đến ngày xét xử, cụ thể:

500.000.000đ x 10%/năm x 06 tháng 20 ngày = 27.666.000đ.

492.000.000đ x 10%/năm x 7 tháng 22 ngày = 31.580.000đ.

487.000.000đ x 10%/năm x 2 tháng 21 ngày = 10.913.000đ. Tổng cộng cả gốc và lãi là 557.159.000đ.

Tại phiên tòa, anh K vắng mặt đến lần thứ hai mà không có lý do, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vắng mặt đương sự.

[3] Về án phí: Vì yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, do vậy bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điều 463, 466, 468, 470 Bộ luật dân sự năm 2015.

Căn cứ điều 235, 264, 266, 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Nguyễn Văn Ph.

2. Buộc anh Cao Ngọc K phải có nghĩa vụ trả cho anh Nguyễn Văn Ph số tiền gốc là 487.000.000đ và số tiền lãi là 70.159.000đ. Tổng cả gốc lẫn lãi là 557.159.000đ (năm trăm năm mươi bẩy triệu một trăm năm mươi chín nghìn đồng).

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu lãi suất đối với số tiền chưa thi hành án theo quy định tại điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2, Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30, Luật thi hành án dân sự.

3. Về án phí: Anh Cao Ngọc K phải chịu 26.286.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho anh Nguyễn Văn Ph số tiền 13.800.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 001244, ngày 25/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Phong.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2020/DSST ngày 16/04/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa anh P và anh K

Số hiệu:09/2020/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;