Bản án 09/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG BÚK, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 09/2019/HS-ST NGÀY 26/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Búk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T; Tên gọi khác: C, Nguyễn Văn C; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1971; tại: tỉnh Tây Ninh; Nơi thường trú: Khu phố M, Phường M, thành phố T, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 0/12 (Không biết chữ); Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu P và bà Nguyễn Kim N (đều đã chết); Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: 03 tiền án.

- Bản án số 04 ngày 10/3/1992, bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. Ngày 16/10/1992, chấp hành xong hình phạt tù, chưa thi hành xong về phần án phí, chưa được xóa án tích.

- Bản án số 03/2012/HSST ngày 21/02/2012, bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đắk Nông xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 19/12/2012, chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích.

- Bản án số 57/2014/HSST ngày 16/12/2014, bị Tòa án nhân dân thị xã G, tỉnh Đắk Nông xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Ngày 23/6/2017, chấp hành xong hình phạt tù. chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 31/3/1994, bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Sông Bé xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. Ngày 11/12/1995, chấp hành xong hình phạt tù.

- Bản án số 237/STHS ngày 28/5/1996, bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. Ngày 30/4/1999, chấp hành xong hình phạt tù.

- Bản án số 15/HSST ngày 14/6/2002, bị Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương xử phạt 34 (Ba mươi bốn) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 16/4/2004, chấp hành xong hình phạt tù.

- Bản án số 47/HSST ngày 26/5/2005, bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh xử phạt 03 năm tù về tội về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 03/10/2007, chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 01/11/2018, tạm giam từ ngày 07/11/2018 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Y C Êban – Sinh năm: 1983 (Có mặt)

Trú tại: Buôn Đ, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 31/10/2018, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47M9-9277 (chiếc xe này T mua của một người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch ở đâu) đi theo hướng từ thị xã B, tỉnh Đắk Lắk về xã C, huyện K với mục đích tìm tài sản sơ hở của người dân thì trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Khi đến ngã ba đường đi vào buôn Đ, xã C thì T chạy xe vào vườn cà phê của ông Phạm Anh T thuộc buôn Đ, xã C để cất giấu xe và nằm ngủ trên xe mô tô chờ đến trời khuya sẽ đi trộm cắp tài sản của người dân. Đến khoảng 01 giờ 30 phút, ngày 01/11/2018, T đi bộ vào trong buôn Đo, xã C tìm tài sản để trộm cắp, khi đi đến trước nhà của anh Y C Êban tại buôn Đ, T quan sát thấy cửa phía sau nhà bằng tôn nên T đi vòng ra của sau để đột nhập vào trong nhà anh Y C Êban, sau đó T dùng tay bẻ cong tấm tôn để mở chốt cửa phía trong. Sau khi mở được cửa, T đi vào trong nhà bếp và đi vào phòng ngủ của anh Y C lấy trộm 02 chiếc điện thoại di động đang sạc pin để trong hai túi áo khoác treo trên tường, trong đó 01 điện thoại di động hiệu Samsung A6 và 01 điện thoại di động hiệu Oppo A83 và lấy trộm trong túi quần đùi của anh Y C Êban số tiền 100.000đồng cùng với chìa khóa chiếc xe mô tô. Sau đó, T đi vào trong nhà bếp, mở khóa xe mô tô biển kiểm soát 47H1-507.51, rồi dắt xe ra ngoài, nổ máy điều khiển xe chạy ra đường Quốc lộ 14 hướng về thị xã B để đi về tỉnh Bình Phước tìm nơi tiêu thụ các tài sản trộm cắp được. Khi T đi đến khu vực xã B, huyện P, tỉnh B thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Búk phát hiện bắt giữ.

Theo biên bản định giá tài sản và bản kết luận định giá tài sản ngày 07/11/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân Krông Búk kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, biển kiểm soát 47H1 -507.51 trị giá 46.000.000đồng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A6, trị giá 4.200.000đồng, 01 điện thoại di động hiệu Oppo A83 trị giá 2.000.000đồng. Tổng trị giá các tài sản định giá là 52.200.000đồng.

Tại bản Cáo trạng số: 11/CT-VKS ngày 01/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Búk đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện đúng như nội dung bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Quá trình tranh tụng tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát huyện Krông Búk đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; các điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T mức án từ 03 năm đến 04 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 01/11/2018.

* Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Về xử lý vật chứng: Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Búk đã trả lại 01 điện thoại di động hiệu Samsung A6; 01 điện thoại di động hiệu Oppo A83 màu trắng hồng; 01 chiếc xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter màu sơn trắng đỏ đen, dung tích xylanh 149cm3, số máy G3D4B695444, số khung 0610JY667909, biển kiểm soát 47H1 – 507.51 và 100.000đồng cho anh Y C Êban là chủ sở hữu hợp pháp nhận sử dụng.

Đi với 01 điện thoại di động hiệu Nokia RM962 màu đen, 01 Giấy chứng minh nhân dân và 01 Giấy phép lái xe hạng A1 đều mang tên Nguyễn Văn T không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cần trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T là chủ sở hữu.

Đi với 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47M6-9277, 01 giấy đăng ký xe mô tô số 039586 mang tên Hứa Dương K, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Búk đã tiến hành điều tra, xác minh đối với Hứa Dương K để làm rõ chủ sở hữu chiếc xe trên nhưng không có kết quả nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Búk tiếp tục tạm giữ chiếc xe và Giấy đăng ký xe trên để điều tra làm rõ chủ sở hữu và xử lý sau.

Về phần trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Y C Êban không yêu cầu bồi thường gì nên không xem xét giải quyết.

Bị cáo Nguyễn Văn T không bào chữa và tranh luận gì, bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

[2] Về hành vi của bị cáo đã thực hiện: Khoảng 01 giờ 30 phút, ngày 01/11/2018, Nguyễn Văn T đã có hành vi lén lút đột nhập vào nhà của anh Y C Êban tại buôn Đ, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để lấy trộm 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, biển kiểm soát 47H1-507.51, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A6, 01 điện thoại di động hiệu Oppo A83 và số tiền 100.000đồng. Tổng trị giá các tài sản bị cáo chiếm đoạt là 52.300.000đồng. Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận, hanh vi cua bị cáo Nguyễn Văn T đa pham vao tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000đồng hoặc dưới 2.000.000đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

.....................................................

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

.....................................................

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000đồng đến dưới 200.000.000đồng.

.....................................................

g) Tái phạm nguy hiểm.”

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Búk truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội.

Hi đồng xét xử nhận thấy tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại anh Y C Êban mà còn gây tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ khả năng nhận thức, bị cáo biết được quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật sẽ đều bị pháp luật trừng trị, đồng thời bị cáo còn là người có nhân thân xấu, trước đây đã từng nhiều lần phạm tội nhưng sau khi ra tù vẫn không tu dưỡng, rèn luyện để trở thành người lương thiện mà còn tiếp tục vi phạm. Bị cáo có 03 tiền án. Trong đó năm 2012, đã bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đắk Nông xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tăng nặng “Tái phạm” chưa được xóa án tích. Năm 2014, đã bị Tòa án nhân dân thị xã G, tỉnh Đắk Nông xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm”, chưa được xóa án tích nhưng đến ngày 01/11/2018 bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, do đó bị cáo phải chịu tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới phát huy được tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

[4] Về xử lý vật chứng:

[4.1] Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Búk đã trả lại 01 điện thoại di động hiệu Samsung A6; 01 điện thoại di động hiệu Oppo A83 màu trắng hồng; 01 chiếc xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter màu sơn trắng đỏ đen, dung tích xylanh 149cm3, số máy G3D4B695444, số khung 0610JY667909, biển kiểm soát 47H1 – 507.51 và 100.000đồng cho anh Y C Êban là chủ sở hữu hợp pháp nhận sử dụng, Anh Y C Êban đã nhận lại các tài sản nói trên và không có ý kiến khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4.2] Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia RM962 màu đen của bị cáo Nguyễn Văn T không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cần trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T là chủ sở hữu nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

[4.3] Đối với 01 Giấy chứng minh nhân dân và 01 Giấy phép lái xe hạng A1 đều mang tên Nguyễn Văn T không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cần trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T.

[4.4] Đối với 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47M6 – 9277, 01 giấy đăng ký xe mô tô số 039586 mang tên Hứa Dương K, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Búk đã tiến hành điều tra, xác minh đối với Hứa Dương K để làm rõ chủ sở hữu chiếc xe trên nhưng không có kết quả nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Búk tiếp tục tạm giữ chiếc xe và Giấy đăng ký xe trên để điều tra làm rõ chủ sở hữu và xử lý sau là phù hợp.

[5] Về phần trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Y C Êban không yêu cầu bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; các điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 01/11/2018.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T 01 Giấy chứng minh nhân dân và 01 Giấy phép lái xe hạng A1 đều mang tên Nguyễn Văn T không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia RM962 màu đen của bị cáo Nguyễn Văn T không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

(Vật chứng có số lượng và đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04/4/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Búk và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Búk)

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa ánBị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:09/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Búk - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;