Bản án 09/2019/HSST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 09/2019/HSST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 08/2019/HSST ngày 25 tháng 01 năm 2019; Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và Tên: Trần Tuấn D, (Tên gọi khác: Không); Giới tính: nam; Sinh năm 1992, tại Ninh Bình; Nơi cư trú: số nhà 151, phố 8, phường V, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Trần Quang V và bà Vũ Thị T; Gia đình có 2 anh em, D là con thứ hai; Vợ, con: Chưa có;

Tiền án, tiền sự: Chưa có;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/12/2018 đến ngày 20/12/2018 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình, (có mặt).

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Xuân T1, (Vắng mặt).

2. Anh Phạm Văn T2, (Vắng mặt).

3. Chị Vũ Thị T, (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 17/12/2018 D đi xe taxi hãng H biển kiểm soát 35A-05...8 do anh Phạm Văn T2 sinh năm 1990 trú tại thôn D, xã G, huyện G điều khiển từ ngã ba G thuộc xã G, huyện G sang khu vực huyện Ý, tỉnh Nam Định tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi qua cầu Non Nước thuộc thôn D, xã Y, huyện Ý, tỉnh Nam Định khoảng 200m, D bảo anh T2 dừng xe ngoài đường quốc lộ 10 chờ. Sau đó D xuống xe đi bộ vào một ngõ nhỏ gặp một người đàn ông không quen biết hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá. Người đàn ông cầm tiền và đưa lại cho D 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng túi nilon màu trắng kích thước (1x1,5) cm bên trong là chất tinh thể dạng cục màu trắng. Mua được ma túy, D đút vào túi quần bên phải phía trước đang mặc rồi đi ra xe taxi bảo anh T2 chở về thành phố N. Khoảng 16 giờ 50 phút cùng ngày, khi xe taxi đi đến khu vực đường Đ, phố 8, phường Đ, thành phố N thì bị Tổ công tác Công an phường V, thành phố N phối hợp với Công an phường Đ phát hiện bắt quả tang. Khi bị bắt giữ, D đã tự giác móc trong túi quần phía trước bên phải ra gói ma túy vừa mua ra giao nộp cho Tổ công tác và khai nhận gói ma túy đá là của D mua về để sử dụng. Ngoài ra còn thu giữ của Trần Tuấn D số tiền 913.000 đồng.

Cân xác định khối lượng chất tinh thể màu trắng trong gói nilon thu giữ của Trần Tuấn D có khối lượng là 0,335 gam ký hiệu M gửi giám định xác định loại ma túy, khối lượng chất ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số 46/KLGĐ-PC09-MT ngày 19/12/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,3368 gam là ma túy, loại Methamphetamine.

Tại phiên tòa bị cáo D đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận giám định số 46/KLGĐ-PC09-MT ngày 19/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Trần Tuấn D đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Tại bản cáo trạng số 12/CT-VKS ngày 22/01/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố bị cáo Trần Tuấn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự (BLHS).

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51 BLHS; xử phạt Trần Tuấn D từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2018.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS); Tịch thu tiêu hủy 0,2584 gam Methamphetamine cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong do cơ quan giám định hoàn trả lại và vỏ bao gói niêm phong ban đầu.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là khách quan phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như Biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL: 25-26); Biên bản niêm phong vật chứng (BL: 27); Kết luận giám định số 46/KLGĐ-PC09-MT ngày 19/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình (BL: 33). Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận khoảng 16 giờ 50 phút ngày 17/12/2018, tại khu vực đường Đ, phố 8, phường Đ, thành phố N, tỉnh Ninh Bình. Trần Tuấn D có hành vi cất giữ trái phép 0,3368 gam là chất ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân bị phát hiện, bắt giữ. (Methamphetamine là chất ma tuý thuộc bảng Danh mục II có STT 323; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định danh mục chất ma túy).

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma tuý; Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, trách nhiệm hình sự đồng thời biết rất rõ tác hại của ma túy và việc mua bán, tàng trữ, sử dụng ma tuý bị nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự, thấy: hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại bản Cáo trạng, lời luận tội, các chứng cứ buộc tội bị cáo như Kiểm sát viên trình bày tại phiên toà là có căn cứ. Do đó, hành vi cất giữ trái phép 0,3368 gam là chất ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng của bị cáo D đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Khi bị kiểm tra D đã tự giác móc trong túi quần phía trước bên phải ra gói ma túy vừa mua ra giao nộp cho Tổ công tác và khai nhận gói ma túy đá là của D mua về để sử dụng; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt, tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo cai nghiện, cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích vụ lợi vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[2] Về xử lý vật chứng:

- Đối với số tiền 913.000 đồng thu giữ của D, quá trình điều tra xác định là của bà Vũ Thị T sinh năm 1970 trú tại phố 8, phường V, thành phố N là mẹ đẻ của D. Ngày 17/12/2018 bà T đưa tiền cho D để đi mua đồ cho gia đình không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan điều tra Công an thành phố N đã trả lại số tiền trên cho bà T là phù hợp.

- Đối với 0,2584 gam Methamphetamine cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong do cơ quan giám định hoàn trả lại được niêm phong trong 01 phong bì và vỏ bao gói niêm phong ban đầu là vật nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu huỷ theo quy định tại Điều 47 BLHS và khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

[3] Các vấn đề khác:

- Về nguồn gốc gói Methampetamine thu giữ của Trần Tuấn D, Dương khai mua của một người đàn ông không quen biết ở trong một ngõ nhỏ thuộc thôn D, xã Y, huyện Ý, tỉnh Nam Định nên không có cơ sở điều tra xác minh làm rõ.

- Đối với Phạm Văn T2 quá trình điều tra xác định, T2 không biết D thuê xe của T2 đi mua ma túy và không biết D cất giấu ma túy trong người do đó Cơ quan CSĐT công an thành phố N không có căn cứ xử lý đối với Phạm Văn T2 - Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51 BLHS;

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Tuấn D phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Xử phạt bị cáo Trần Tuấn D 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/12/2018.

2. Xử lý vật chứng: căn cứ Điều 47 BLHS; Khoản 2 Điều 106 BLTTHS Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì thư niêm phong theo đúng quy định của pháp luật.

(Chi tiết vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 24/01/2019 giữa Cơ quan CSĐT công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: căn cứ khoản 2 các điều 135 và 136 BLTTHS; các điều 21, 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Tuấn D phải chịu 200.000đ.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2019/HSST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:09/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;