Bản án 09/2019/HS-ST ngày 23/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 09/2019/HS-ST NGÀY 23/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 03/2019/TLST-HS ngày  10  tháng  01  năm  2019  theo  Quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số: 10/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo: Trần Trung D, sinh ngày 27 tháng 11 năm 1980 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn N, xã P, huyện C, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T1 (tức Trần Văn T2) và bà Nguyễn Thị L; bị cáo có vợ Nguyễn Thị H (đã ly hôn); có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 04/1996/HSST ngày 15/5/1996 Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng về tội “Cướp tài sản” (bị cáo phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi nên không tính là có án tích); bị bắt tạm giữ ngày 27/10/2018, tạm giam ngày 29/10/2018; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ ngày 27/10/2018, tại phòng trọ số 28 ngõ 230 đường An Đà, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Công an phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng kiểm tra bắt quả tang Trần Trung D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Quá trình điều tra, Trần Trung D khai nhận: Bản thân là người thỉnh thoảng sử dụng chất ma túy, nên khoảng 17 giờ 30 phút ngày 26/10/2018 D đi bộ đến khu vực đường tàu phường Mê Linh, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng mua ma túy của một người phụ nữ không quen biết 03 gói ma túy đá hết 300.000 đồng. Mua xong D cất 03 gói ma túy vào túi quần bên phải phía trước rồi đi về phòng trọ, mục đích để sử dụng cho bản thân. Đến 00 giờ ngày 27/10/2018 khi đang ở trong phòng trọ thì D bị cơ quan Công an kiểm tra bắt quả tang vật chứng thu giữ trong túi quần bên phải phía trước của D 03 gói nilon, mỗi gói có kích thước 1,5x1,5 cm, bên trong đều chứa tinh thể màu trắng. Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng gửi giám định.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của D, đường A, phường Đ, Cơ quan điều tra không thu giữ vật chứng liên quan đến ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số 589/KLGĐ ngày 28/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: “Mẫu tinh thể thu giữ của Trần Trung D gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2787 gam, là loại: Methamphetamine”.

Tại Bản cáo trạng số 10/CT-VKS ngày 08/01/2019 Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Trần Trung D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo Trần Trung D khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với trọng lượng 0,2787 gam, là loại: Methamphetamine.

Kiểm sát giữ quyền công tố và luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như nội dung bản cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Trần Trung D mức án từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong còn lại sau giám định số 589/2018/PC09 là ma túy còn lại sau giám định là vật chứng của vụ án.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có công việc, không có thu nhập và tài sản nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Sau khi kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt, tạo điều kiện để bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

+ Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên:

 [1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Trần Trung D không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

 [2] Lời khai nhận của bị cáo Trần Trung D tại phiên tòa phù hợp với lời khai nhận của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, khẳng định: Khoảng 00 giờ ngày 27/10/2018, tại phòng trọ đường A, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng, Công an phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng kiểm tra bắt quả tang Trần Trung D có hành vi cất giữ bất hợp pháp chất ma túy. Tại bản Kết luận giám định số 589/KLGĐ ngày 28/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: “Mẫu tinh thể thu giữ của Trần Trung D gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2787 gam, là loại: Methamphetamine”. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trần Trung D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

 [3] Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng truy tố đối với bị cáo Trần Trung D về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.

- Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội:

 [4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm trật tự trị an xã hội, làm phát sinh nhiều loại tội phạm hình sự khác.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

 [5] Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

- Về nhân thân bị cáo:

 [6] Bị cáo có 01 tiền án năm 1996, tuy nhiên thời điểm phạm tội bị cáo dưới 16 tuổi nên Hội đồng xét xử xác định bị cáo không có án tích theo quy định tại khoản 1 Điều 107 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, cũng phải xét bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy, cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

 [7] Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt bổ sung:

 [8] Ngoài hình phạt chính, bị cáo Trần Trung D còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của  Bộ luật hình sự. Do bị cáo không có công việc, không có thu nhập và tài sản nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

- Về việc xử lý vật chứng:

 [9] Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong còn lại sau giám định số 589/2018/PC09 chứa số ma túy còn lại sau giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng.

 [10] Trong vụ án này, đối với người phụ nữ bán ma túy cho Trần Trung D chưa xác minh làm rõ được lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh có căn cứ sẽ xử lý sau.

- Về án phí:

 [11]  Bị cáo Trần Trung D phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo:

 [12] Bị cáo Trần Trung D được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Trần Trung D 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ từ ngày 27/10/2018.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì thư niêm phong số 589/2018/PC09 chứa số ma túy còn lại sau giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Trần Trung D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Trần Trung D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2019/HS-ST ngày 23/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;