TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN CANH, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 09/2019/HS-ST NGÀY 16/10/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 16 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 09/2019/TLST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:
Lê Văn C (Tên gọi khác: Không có), sinh ngày 23 tháng 7 năm 1996 tại: Thị trấn B, huyện H, tỉnh B, nơi cư trú: Thôn H, xã C, huyện V, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn C, sinh năm 1962; và bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1966; vợ, con: chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Tôn Nữ Kim Yến - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Định-Có mặt
Địa chỉ: 57 Lê Hồng Phong, thị trấn Diêu Trì, Tuy Phước, Bình Định
- Bị hại: Chị Đường Hoàng Thanh N, sinh ngày 14/10/2001 (Chết)
Địa chỉ: Thôn T, xã T1, huyện T2, tỉnh B.
- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Anh Đường Hữu H, sinh năm 1978 – Có mặt.
Địa chỉ: Thôn T, xã T1, huyện T2, tỉnh B
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Lê Văn T, sinh năm 1981-Có mặt
Địa chỉ: Thôn K, xã E, huyện S, tỉnh P
+ Ông Trần Kim H, sinh năm 1962 - Vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt
Địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện S, tỉnh P
+ Ông Lê Văn C, sinh năm 1962-Có mặt
Địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện V, tỉnh B
- Người làm chứng:
+ Chị Lê Thị T, sinh năm 1982-Vắng mặt
+ Anh Huỳnh Văn Đ, sinh năm 1988-Vắng mặt
+ Ông Đào Ngọc H, sinh năm 1963-Vắng mặt
+ Chị Nguyễn Thị Kiều D, sinh năm 2001 (Người giám hộ cho chị Nguyễn Thị Kiều D là ông Nguyễn Chức N, sinh năm 1978-cha ruột)-Vắng mặt
Đồng địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện V, tỉnh B
+ Ông Huỳnh Văn N, sinh năm 1967-Vắng mặt
Địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện V, tỉnh B
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ ngày 23/4/2019, Lê Văn C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 77B1-033.24 chạy theo hướng Vân Canh-Diêu Trì chở chị Đường Hoàng Thanh N (là người sống chung với C như vợ chồng) ngồi sau. Khi đến km12 + 100 Quốc lộ 19C thuộc thôn H, xã C, huyện V, tỉnh B thì thấy chiếc xe ô tô tải biển kiểm soát 77C-033.64 (trên xe chở đầy gỗ keo) do Lê Văn T điều khiển đi cùng chiều. C bấm còi xin vượt lên phía trước nhưng T chưa cho vượt vì đường hẹp, đông người. Khi xe anh T đang lưu thông, thì có 02 xe đầu kéo chạy ngược chiều, nên anh T cho xe ô tô của mình dừng lại, nhường đường cho 02 xe đầu kéo đi qua, sau đó anh T đề ba đi tiếp.
Lúc này, C bắt đầu tăng tốc để vượt xe của anh T về phía bên trái. Khi đang vượt được 1/2 thùng xe ô tô 77C-03364 của anh T thì có 01 xe mô tô chạy ngược chiều do 01 người đàn ông trung niên không rõ lai lịch điều khiển chở sau có 01 người phụ nữ và thùng xốp. Thấy vậy, C thắng xe gấp để tránh va quẹt với xe mô tô của người đàn ông này làm chị N ngồi sau ngã người xoay về phía trước và rớt xuống gầm xe ô tô phía bên trái, vị trí trục thứ 03 (tính từ trước ra sau) của xe ô tô tải 77C-033.64 đang đi cùng chiều. Lúc này, anh T nhìn vào gương chiếu hậu bên trái thì thấy sự việc xảy ra liền thắng xe lại, nhưng bánh xe đã cán lên 1/3 người chị N. Nghe chị N kêu, C thắng xe dừng lại chạy tới kéo chị N ra khỏi bánh xe và đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định nhưng N đã tử vong trên đường đưa đi cấp cứu.
Kết quả khám nghiệm phương tiện xác định: Xe ô tô biển kiểm soát 77C-033.64 có mặt lăn lốp xe bên trái ngoài cùng của trục thứ ba tính từ trước ra sau, tại vị trí cách dòng chữ Regroovable Ridia…ở phía mặt ngoài 75cm, cách mặt đất 0,41m phát hiện dấu vết cơ, máu của nạn nhân còn xe mô tô biển kiểm soát 77B1-033.24 không phát hiện, ghi nhận dấu vết, đặc điểm gì.
Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: Hiện trường là đoạn đường bằng phẳng, không bị che khuất tầm nhìn, nền đường bê tông, chiều rộng đường là 6m, có vị trí tiệm cận: Phía Bắc giáp phần đường đi về hướng Diêu Trì, phía Nam giáp phần đường đi về hướng Vân Canh, phía Đông giáp nhà ông Nguyễn Thanh A, phía Tây giáp nhà ông Đào Ngọc H; bên phải hiện trường giáp nhà dân, không có lề đường, bên trái độ dài lề đường là 1,2m. Phát hiện một đôi dép lào xốp màu xanh, dép bên phải nằm dưới lốp xe, dép trái cách lốp xe 18cm về phía Tây; đầu dép cách lề trái 1,64m, đuôi dép cách lề 1,7m. Bên cạnh, phía trước bánh xe nêu trên phát hiện dấu vết máu, cơ của nạn nhân kích thước (0,8 x 0,55)m cách lề trái 2,16m. Xe mô tô biển kiểm soát 77B1-033.24, loại xe SIRIUS, màu Đen-Trắng, tư thế đứng, gạt chống, đầu xe quay về hướng Bắc, đuôi xe quay về hướng Nam. Trục trước và trục sau xe mô tô cách lề trái lần lượt là: 1,53m và 1,75m; trục trước xe mô tô cách trục thứ 2 bên trái xe tải 1,8m, trục sau xe mô tô cách trục thứ 3 bên trái xe tải 1,74m.
Theo Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 73/2019/PY-TT ngày 24/4/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Định về nguyên nhân chết của chị Đường Hoàng Thanh N: Sốc đa chấn thương Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Canh đã trả lại cho ông Trần Kim H, Lê Văn C, Lê Văn C, Lê Văn T: Xe ô tô biển kiểm soát 77C-033.64, xe mô tô 77B1-033.24 và các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án mà cơ quan điều tra đã thu giữ.
Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình bị hại Đường Hoàng Thanh N yêu cầu bồi thường chi phí mai táng và tiền bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm với số tiền: 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng) (Chi phí mai táng 40.000.000đ, tổn thất về tinh thần 40.000.000đ). Bị cáo thống nhất với mức bồi thường theo yêu cầu, nhưng do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, nên trong giai đoạn điều tra, truy tố C chưa bồi thường, khắc phục hậu quả gì cho gia đình nạn nhân Đường Hoàng Thanh N.
Tại Bản cáo trạng số 09/CT-VKSVC ngày 21/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định truy tố bị cáo Lê Văn C về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Văn C. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu; bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Nên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Lê Văn C từ 12 đến 18 tháng tù.
Về dân sự: Áp dụng Điều 584, 585, 591 Bộ luật Dân sự 2015, ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo về việc bồi thường thiệt hại cho đại diện hợp pháp của bị hại với số tiền là 80.000.0000đ (Trong đó bồi thường chi phí mai táng 40.000.000đ, bồi thường tổn thất về tinh thần là 40.000.000đ).
Trợ giúp viên pháp lý bà Lê Tôn Nữ Kim Yến bào chữa cho bị cáo Lê Văn C nhất trí với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, 2 Điều 51 Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; về bồi thường dân sự thì đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo về việc bồi thường thiệt hại cho đại diện hợp pháp của bị hại với số tiền là 80.000.0000đ.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vân Canh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn C khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trước đây tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Sáng ngày 23 tháng 4 năm 2019, bị cáo điều khiển xe mô tô biển số: 77B1-033.24 chở chị Đường Hoàng Thanh N từ nhà của bị cáo ở thôn H, xã C đến công ty Hoa Đôn ở Canh Vinh để làm công nhân. Khi đi đến tại Km 12+100, Quốc lộ 19C thuộc thôn H, xã, huyện V thì gặp xe ô tô tải biển kiểm soát 77C-033.64 đang đi cùng chiều phía trước do Lê Văn T điều khiển. Bị cáo xin vượt nhưng Lê Văn T chưa cho vì đường hẹp, cùng lúc này có 02 xe Container đi ngược chiều nên anh T cho xe ngừng lại tránh đường cho 02 xe Container đi qua, sau đó anh T đề ba xe đi tiếp. Lúc này, bị cáo không quan sát phía trước nhưng tăng tốc xe mô tô để vượt xe của anh T về phía bên trái, khi vượt được khoảng nửa thùng xe ô tô thì bị cáo phát hiện thấy phía trước xe của bị cáo có hai xe mô tô va quẹt với nhau. Thấy vậy, bị cáo thắng xe gấp để tránh va quẹt làm cho chị Đường Hoàng Thanh N ngồi phía sau xe ngã xuống đường, rơi vào gầm bên trái, tại vị trí trục số 3 xe ô tô do anh T điều khiển. Nhìn qua gương chiếu hậu, anh T thấy sự việc xảy ra nên thắng xe lại nhưng không kịp, bánh xe đã cán lên 1/3 người chị N. Hậu quả, chị N bị đa chấn thương và chết trên đường đưa đi cấp cứu. Hành vi điều khiển xe mô tô vượt xe chạy cùng chiều nhưng thiếu chú ý quan sát, vượt xe khi có xe chạy ngược chiều trong đoạn đường định vượt của bị cáo dẫn đến tai nạn làm cho chị N bị chết đã vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 14 Luật Giao thông đường bộ năm 2008. Do đó, bị cáo Lê Văn C đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Canh truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến tính mạng chị Nhã, gây đau thương, mất mát lớn cho gia đình bị hại, mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình quản lý trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở địa phương. Nên cần thiết xét xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi và hậu quả mà bị cáo gây ra nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Sau khi phạm tội bị cáo khai báo thành khẩn. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan toàn bộ vật chứng của vụ án nên Hội đồng xét xử không xét.
[7] Về bồi thường thiệt hại:
[7.1] Tại phiên tòa, đại diện gia đình bị hại là ông Đường Hữu H yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho đại diện gia đình bị hại số tiền là 80.000.000đ (Tám mươi triệu đồng). Trong đó: Tiền chi phí mai táng là 40.000.000đ, tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là 40.000.000đ. Bị cáo Lê Văn C chấp nhận toàn bộ yêu cầu bồi thường của đại diện gia đình bị hại, nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo.
[7.2] Căn cứ Giấy khai sinh và lý lịch cá nhân của bị hại Đường Hoàng Thanh N thì bị hại có cha là ông Đường Hữu H, mẹ là bà Hoàng Thị N. Theo quy định tại Điều 591 và 651 Bộ luật Dân sự thì bị cáo phải có nghĩa vụ bồi thường tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bị hại đó là ông Đường Hữu H và bà Hoàng Thị N. Tuy nhiên quá trình điều tra xác định, bà Hoàng Thị N đã bỏ địa phương đi biệt tích từ năm 2001 đến nay, không xác định được địa chỉ nơi cư trú của bà N ở đâu, nên Tòa không đưa bà N tham gia tố tụng. Nếu sau này bà N có tranh chấp với ông Đường Hữu H về số tiền bồi thường tổn thất về tinh thần trên thì Tòa án sẽ giải quyết bằng một vụ kiện khác.
[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[9] Xét đề nghị của trợ giúp viên pháp lý cho bị cáo được hưởng án treo là không tương xứng với tính chất, mức độ nghiêm trọng do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nên không được chấp nhận.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn C phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
- Xử phạt bị cáo Lê Văn C 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 585, 586, 591 của Bộ luật Dân sự. Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Lê Văn C về việc bồi thường thiệt hại cho đại diện hợp pháp của gia đình bị hại, người đại diện là ông Đường Hữu H với số tiền 80.000.000đ (Tám mươi triệu đồng) (Trong đó tiền chi phí mai táng là 40.000.000đ, tiền tổn thất về tinh thần là 40.000.000đ).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 144, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Văn C phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện gia đình bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 09/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 09/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vân Canh - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về