TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ QUỐC – TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 09/2019/HS-ST NGÀY 16/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 16 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2019 đối với:
Bị cáo: Nguyễn Văn L, sinh năm 1991 tại Bạc Liêu; Nơi cư trú: Ấp N, xã H, huyện H D, tỉnh Bạc Liêu; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1964 và bà Lê Thị L, sinh năm 1961. Tiền án: Năm 2018 bị TAND huyện Phú Quốc xử phạt 05 tháng 03 ngày tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo bản án hình sự sơ thẩm số 47/2018/HSST ngày 22/3/2018. Tiền sự: Không.
Bị cáo Nguyễn Văn L bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/10/2018 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Anh Lê Văn T, sinh năm 2001 (Có đơn xin vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp A, xã C C, huyện P, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 01 giờ ngày 22/10/2018, Nguyễn Văn L đi bộ đến nhà người bạn thuộc ấp A, xã C, huyện P, khi đi ngang nhà anh T thì thấy 01 chiếc xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter, màu cam đen, biển số 68P1-547.41, L nảy sinh ý định trộm cắp lấy tiền tiêu sài cá nhân. Nhìn xung quanh không có ai, L vào nhà dẫn xe ra đường, dùng chìa khóa có sẵn mở khóa xe và chạy xe về ấp Suối Lớn, Dương Tơ cất giấu. Đến khoảng 19 giờ ngày 23/10/2018 L đem chiếc xe đi cầm cho M, L (Lý Minh L không biết đây xe do trộm cắp) với số tiền 7.000.000 đồng, do không có tiền nên Lý Minh L đưa cho L một chiếc nhẫn vàng không rõ trọng lượng, Nguyễn Văn L đem bán được 5.000.000 đồng tiêu sài cá nhân hết. Đến 25/10/2018 L bị công an phát hiện, bắt giữ cùng tang vật.
Vật chứng thu giữ:
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu cam đen, số máy G3D4E75564, số khung 0610JY726632, biển số 68P1-547.41 đã qua sử dụng;
Sau khi vụ án xảy ra, Lê Văn T là người bị hại đã nhận lại đủ tài sản bị trộm và không yêu cầu bồi thường thiệt hại hay yêu cầu gì thêm.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 64/KL-HĐĐGTS ngày 07/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phú Quốc kết luận:
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu cam đen, số máy G3D4E75564, số khung 0610JY726632, biển số 68P1-547.41 đã qua sử dụng trị giá 38.000.000 đồng.
Bản cáo trạng số: 19/CT-VKSPQ ngày 08 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ quyền công tố và luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173 BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 15 đến 18 tháng tù giam.
Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Người bị hại không yêu cầu gì nên đề nghị HĐXX miễn xét.
Đối với Lý Minh L không yêu cầu bồi thường gì nên đề nghị HĐXX miễn xét.
Về vật chứng: Các vật chứng đã trả cho chủ sở hữu nên đề nghị HĐXX miễnx ét.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng, bị cáo không có ý kiến tranh luận đối với quyết định truy tố, bản luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc.
Lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Quốc, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc truy tố.
Vào khoảng 01 giờ 00 phút ngày 22/10/2018, Nguyễn Văn L đến nhà anh Lê Văn T thuộc ấp A, xã C, huyện P, tỉnh Kiên Giang trộm cắp 01 chiếc xem mô tô Yamaha, loại Exciter, màu cam đen, số máy G3D4E75564, số khung 0610JY726632, biển số 68P1-547.41 của anh T đã qua sử dụng trị giá 38.000.000 đồng, sau đó bị phát hiện bắt giữ.
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử đã đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Văn L phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến tài sản của người bị hại một cách trái pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương và gây hoang mang trong dư luận quần chúng nhân dân. Do đó, Hội đồng xét xử cần xử bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội, đồng thời để phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Ngày 22/3/2018 bị cáo bị TAND huyện Phú Quốc xử phạt 05 tháng 03 ngày tù giam về tội Trộm cắp tài sản, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam đến ngày tuyên án thì bị cáo đã chấp hành xong nên được trả tự do tại phiên tòa. Vì vậy bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 BLHS; tại phiên toà và quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo có tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.
[5] Về xử lý vật chứng: Các vật chứng đã trả cho chủ sở hữu nên Hội đồng xét xử miễn xét.
[6] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường thiệt hại, nên Hội đồng xét xử miễn xét.
Đối với Lý Minh L không có yêu cầu bồi thường thiệt hại gì nên HĐXX miễn xét.
[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 BLHS năm 2015.
Xử phạt: Nguyễn Văn L 18 (mƣời tám) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/10/2018.
3. Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu cam đen, số máy G3D4E75564, số khung 0610JY726632, biển số 68P1-547.41 đã qua sử dụng đã trả cho chủ sở hữu và người bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử miễn xét.
4. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (người bị hại kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú) để xin xét xử phúc thẩm tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
Bản án 09/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 09/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phú Quốc - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/01/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về