Bản án 09/2019/HS-ST ngày 01/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 09/2019/HS-ST NGÀY 01/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 03 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 03/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Kiều Ngọc T sinh năm 1976, tại tỉnh Hưng Yên. Nơi cư trú: Thôn V, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Kiều Chí T và bà Chu Thị S; có chồng Lê Quang V và có 03 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Bản án số 79/HSST ngày 03 tháng 10 năm 2003, Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xử phạt 18 tháng tù về tội Chứa mại dâm (đã được xóa án tích); bị tạm giữ từ ngày 14 tháng 8 năm 2018 đến ngày 20 tháng 8 năm 2018 chuyển tạm giam; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Bùi Văn K, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn A, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 05 phút ngày 14 tháng 8 năm 2018, tổ công tác thuộc Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Thủy Nguyên làm nhiệm vụ tại khu vực thôn M, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng đã phát hiện bắt quả tang Kiều Ngọc T đang bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn N, sinh năm 1988, ở xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Thu giữ trong người T 04 túi nylon màu đen, bên trong bọc lớp giấy bạc màu trắng chứa chất bột màu trắng (nghi là ma túy); tại hộc để đồ phía trước bên trái xe mô tô BKS: 15C1-242.64 do T đang điều khiển 02 gói nylon màu đen, bên trong bọc lớp giấy bạc màu trắng đều chứa chất bột màu trắng (nghi là ma túy); 01 chiếc điện thoại di động (màu đen, nhãn hiệu Nokia, có số sim 0964.580.116), 240.000 đồng và 01 chiếc xe mô tô BKS:15C1-242.64. Thu giữ của N 355.000 đồng. Tổ công tác đã đưa các đối tượng cùng vật chứng về trụ sở Công an xã Thủy Đường lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Tiến hành khám xét nơi ở của Kiều Ngọc T, cơ quan Công an thu giữ: 01 hộp kim loại màu vàng bên trong có 03 túi nylon trong suốt chứa chất bột màu trắng (nghi là ma túy), 01 mảnh túi nylon màu đen, 02 con dao lam, 01 chiếc cân điện tử, 10 mảnh giấy bạc.

Tại bản Kết luận giám định số 459/PC54(MT) ngày 18 tháng 8 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng trong 04 túi nylon Công an thu giữ trong người T là ma túy, có trọng lượng 0,4923 gam, là loại Heroine; Chất bột màu trắng trong 02 túi nylon thu tại hộc để xe mô tô BKS: 15C1-242.64 là ma túy, có trọng lượng 0,2240 gam, là loại Heroine; Chất bột màu trắng trong 03 túi nylon Công an thu giữ tại nơi ở của T là ma túy, có trọng lượng 8,3023 gam, là loại Heroine. Tổng trọng lượng ma túy công an thu giữ là 9,0186 gam, loại Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Kiều Ngọc T khai nhận: Do hoàn cảnh khó khăn, không có nghề nghiệp ổn định nên T nảy sinh ý định mua ma túy để bán lại cho những người nghiện để kiếm lời. Cách thời điểm bị bắt khoảng 01 tuần (không nhớ chính xác thời gian), T một mình sang khu vực đường tàu nội thành Hải Phòng mua của một người đàn ông không quen biết 01 túi Heroine với giá 1.000.000 đồng và 01 cân điện tử mini giá 100.000 đồng. T mang về nhà cất giấu không nói cho chồng biết. Khi chồng đi làm, T mang số ma túy trên ra chia nhỏ, đóng gói bằng giấy bạc bên ngoài bọc túi nylon màu đen bán với giá 200.000 đồng/gói. Cách thức T liên lạc bán ma túy với người khác qua điện thoại, hai bên thỏa thuận số lượng, giá cả, hẹn địa điểm giao dịch cụ thể thì T mang đến điểm hẹn giao dịch. Trong ngày 14tháng 8 năm 2018, T đã 03 lần bán ma túy cho Nguyễn Văn N và Bùi Văn K, sinhnăm 1989 ở xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng cụ thể: Lần thứ nhất, vào khoảng 08 giờ, T bán cho N và K 01 túi Heroine giá 200.000 đồng tại khu vực ngã ba xi măng thuộc phường Sở Dầu, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; Lần thứ hai, vào khoảng 10 giờ 20 phút, T tiếp tục bán cho N và K 01 túi Heroine giá 200.000 đồng cũng tại địa chỉ trên, N trả cho T 45.000 đồng, còn nợ 155.000 đồng; Lần thứ ba, vào khoảng 12 giờ, T mang 01 túi Heroine đến khu vực thôn M, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng để bán cho N. Hai bên đang giao dịch, T chưa kịp giao ma túy, nhận tiền thì bị công an phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng như trên.

Quá trình điều tra, Bùi Văn K tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động (màu vàng, nhãn hiệu Huawei, có số sim 01692.682.591) là điện thoại N, K dùng để liên lạc mua bán ma túy với T. Cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra nội dung điện thoại của K và T có trùng thời gian liên lạc.

Nguyễn Văn N, Bùi Văn K khai như nội dung nêu trên. Chiếc điện thoại K giao nộp cho cơ quan điều tra là của N đưa cho K sử dụng.

Về vật chứng: 02 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định, 02 điện thoại di động (01 chiếc nhãn hiệu Nokia có số sim 0964.580.116, 01 chiếc nhãn hiệu Huawei có số sim 01692.682.591), 01 hộp kim loại màu vàng, 01 mảnh túi nylon màu đen, 02 con dao lam, 01 chiếc cân điện tử, 10 mảnh giấy bạc, 01 chiếc xe mô tô BKS: 15C1-242.64 và 595.000 đồng đang được quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên.

Tại phiên tòa bị cáo thống nhất trình bày như đã nêu trên.

Bà Kiểm sát viên và bị cáo đồng ý với nội dung các Kết luận định giám định, không có ý kiến hay khiếu nại gì.

Bản Cáo trạng số 04/2019/CT-VKS ngày 03 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố Kiều Ngọc T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo các điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS). Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các điểm b, c, i khoản 2 Điều 251, Điều 38 và điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS xử phạt bị cáo từ 10 đến 11 năm tù; không phạt tiền bị cáo; áp dụng Điều 47 của BLHS năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định, 01 hộp kim loại màu vàng, 01 mảnh túi nylon màu đen, 02 con dao lam, 01 chiếc cân điện tử, 10 mảnh giấy bạc; tịch thu phát mại nộp sung quỹ Nhà nước 02 điện thoại di động và 01 chiếc xe mô tô BKS: 15C1-242.64; tịch thu của bị cáo số tiền 595.000 đồng để nộp sung quỹ Nhà nước; bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghỉ nghị án, bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn được sự khoan hồng của pháp luật, được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thủy Nguyên và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Chất bột màu trắng bị cáo Kiều Ngọc T bán cho Nguyễn Văn N và Bùi Văn K là ma túy loại Heroin. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi bán trái phép chất ma túy của bị cáo đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Trong ngày 14 tháng 8 năm 2018, bị cáo Kiều Ngọc T đã bán ma túy cho N và K 03 lần vào các thời điểm, địa điểm khác nhau; khối lượng ma túy bị cáo cất giấu để bán là 9,0186 gam. Hành vi nêu trên, bị cáo đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy với tình tiết định khung là phạm tội nhiều lần, đối với 02 người trở lên và Hêrôin có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam; tội phạm và hình phạt được quy định tại các điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 của BLHS. Các chứng cứ xác định bị cáo không có tội bị loại trừ.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, tác động xấu đến an ninh trật tự xã hội, đạo đức, lối sống, văn hóa và sức khỏe của người khác. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng song có 01 tiền án đã được xóa nên chứng tỏ nhân thân xấu; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

[4] Về hình phạt: Với phân tích trên, cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn và xử phạt bị cáo mức án trên mức khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp. Tại khoản 5 Điều 251 của BLHS quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, nhưng bị cáo không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành nên không phạt tiền bị cáo.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng: 02 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định, 01 hộp kim loại màu vàng, 01 mảnh túi nylon màu đen, 02 con dao lam, 01 chiếc cân điện tử và 10 mảnh giấy bạc không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; 02 điện thoại di động của bị cáo và của N đã dùng liên lạc trao đổi mua bán ma túy và 01 chiếc xe mô tô BKS: 15C1-242.64 bị cáo dùng làm phương tiện để đi bán ma túy, cần tịch thu phát mại nộp sung quỹ Nhà nước; số tiền 595.000 đồng bị cáo bán ma túy mà có cần tịch thu nộp sung quỹ Nhà nước.

[6] Về những vấn đề khác: Vụ án này không có dấu hiệu của việc bỏ lọt tội phạm hoặc hành vi phạm tội mới nên Hội đồng xét xử không phân tích chứng cứ để xem xét việc khởi tố vụ án hay yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự. Đối với N và K có hành vi mua ma túy của T để sử dụng cho bản thân, nhưng cơ quan Công an không thu giữ được ma túy của N, K nên đã xử lý hành chính đối với N và K về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là phù hợp pháp luật. Đối tượng bán ma túy cho T, quá trình điều tra không xác định được căn cước, lai lịch nên không có cơ sở để điều tra là có căn cứ.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, c, i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt: Kiều Ngọc T 11 (Mười một) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 14 tháng 8 năm 2018.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Tờng vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Bị cáo Kiều Ngọc T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong chất ma túy và vỏ bao còn lại sau giám định, 01 hộp kim loại màu vàng, 01 mảnh giấy nylon màu đen, 10 mảnh giấy bạc, 02 dao lam, 01 chiếc cân điện tử; tịch thu của Kiều Ngọc T 595.000 đồng để nộp sung quỹ Nhà nước; tịch thu phát mại nộp sung quỹ Nhà nước 02 điện thoại di động (01 chiếc nhãn hiệu Huawei màu vàng đồng và 01 chiếc nhãn hiệu Nokia màu đen) và 01 chiếc xe mô tô BKS 15C1-242.64 (Chi tiết về vật chứng tại Biên lai thu tiền số 0000789 ngày 19 tháng 12 năm 2018 và Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2019/HS-ST ngày 01/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:09/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;