Bản án 08/2024/KDTM-PT về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐNG NAI

BẢN ÁN 08/2024/KDTM-PT NGÀY 26/04/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 26 tháng 4 năm 2024, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 18/2023/TLPT-KDTM ngày 16 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 01/2023/KDTM-ST ngày 18 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 05/2024/QĐ-PT ngày 19 tháng 02 năm 202 4, Quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm số: 10/2024/QĐ-PT ngày 06 tháng 3 năm 2024 và Quyết định tạm ngừng phiên toà phúc thẩm số: 16/2024/QĐ-PT ngày 29 tháng 3 năm 2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP N1.

Địa chỉ: số A T, phường L, quận H, TP ..

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Quang D - Chức danh: Chủ tịch hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 22/3/2024):

+ Ông Nguyễn Thanh Đức T; Trưởng phòng Khách hàng Bán lẻ Ngân hàng TMCP N1 - Chi nhánh N2.

+ Ông Thiều Đình T1; Phó phòng Khách hàng Bán lẻ Ngân hàng TMCP N1 - Chi nhánh N2.

Địa chỉ trụ sở: Đường N, ấp X, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc D1, sinh năm 1980.

Ông Nguyễn Nhất D2, sinh năm 1981.

Cùng địa chỉ: Ấp T, xã V, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo ủy quyền của ông D2 - bà D1 (Văn bản ủy quyền ngày 11/12/2023): Ông Nguyễn Ngọc V, sinh năm 1992.

Địa chỉ liên hệ: số B H, phường H, quận P, thành phố Hồ Chí Minh.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn:

Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1970.

Địa chỉ: Số B H, phường H, quận P, thành phố Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Thành N, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Ấp T, xã V, huyện N, tỉnh Đồng Nai

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 26/9/2022 và các lời khai tại hồ sơ, nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần N1 do ông Lê Quang A và ông Nguyễn Trung H đại diện trình bày:

Bà Nguyễn Thị Ngọc D1 - ông Nguyễn Nhất D2 và Ngân hàng TMCP N1 - Chi nhánh N2 đã ký kết Hợp đồng cho vay theo hạn mức số 2022581/KHBL-HM ngày 17/06/2022 với nội dung: Ngân hàng cho ông D2 - bà D1 vay số tiền 10.000.000.000 đồng. Mục đích sử dụng: Bổ sung vốn kinh doanh vật liệu xây dựng; thời hạn vay là 06 tháng; lãi suất trong hạn: Được xác định tại thời điểm giải ngân vốn vay theo thông báo lãi suất cho vay của ngân hàng trong từng thời kỳ và được ghi trên từng Giấy nhận nợ. Hiện đang áp dụng: 7.8%, cố định trong suốt thời gian vay; lãi suất quá hạn: 130% lãi suất cho vay trong hạn. Sau khi ký hợp đồng thì Ngân hàng đã giải ngân cho ông D2 - bà D1 vay số tiền 10.000.000.000đ nêu trên.

Để bảo đảm cho khoản vay trên, ông D2 - bà D1 đã thế chấp quyền sử dụng quyền sử dụng đất các thửa số 267, 268, 269 và thửa số 297 tờ bản đồ số 54 xã V, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Hợp đồng thế chấp nêu trên đã được Văn phòng C công chứng ngày 26/01/2019 và các thoả thuận sửa đổi thế chấp ngày 22/3/2019, ngày 23/9/2020, ngày 20/5/2021. Việc thế chấp đã được đăng ký ngày 28/01/2019 tại Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ, chi nhánh N2.

Theo hợp đồng tín dụng thể hiện ông D2 - bà D1 đã nhận nợ 03 lần với tổng số tiền nhận nợ 10.000.000.000 đồng và có trách nhiệm trả lãi vào ngày 08 hàng tháng, kỳ trả nợ đầu tiên vào ngày 08/07/2022. Khách hàng đã trả nợ lần gần nhất vào ngày 11/08/2022 nên toàn bộ dư nợ vay 10.000.000.000 đồng đã chuyển sang nợ xấu.

Ngân hàng đã nhiều lần làm việc trực tiếp và có văn bản yêu cầu ông D2 - bà D1 thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ nêu trên nhưng ông D2 - bà D1 vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi cho Ngân hàng.

Vì vậy, Ngân hàng TMCP N1 yêu cầu khởi kiện:

Tuyên buộc bà Nguyễn Thị Ngọc D1 - ông Nguyễn Nhất D2 phải thực hiện nghĩa vụ trả cho Ngân hàng TMCP N1 toàn bộ số tiền tính đến ngày 18/5/2023 là: 10.667.956.165 đồng trong đó: nợ gốc là 10.000.000.000 đồng, nợ lãi là 573.369.863 đồng, nợ lãi quá hạn là 94.586.302 đồng.

Tuyên buộc bà Nguyễn Thị Ngọc D1 - ông Nguyễn Nhất D2 phải tiếp tục trả lãi phát sinh theo mức lãi thỏa thuận tại hợp đồng cho vay theo hạn mức số 2022581/KHBL-HM ngày 17/06/2022 kể từ ngày tiếp theo của ngày Tòa án xét xử cho đến ngày thực tế bà Nguyễn Thị Ngọc D1 cùng ông Nguyễn Nhất D2 trả hết nợ gốc cho Ngân hàng.

Đối với quyền sử dụng đất gồm các thửa 267, 268, 269 và thửa số 297 tờ bản đồ số 54 xã V, huyện N, tỉnh Đồng Nai là tài sản thế chấp được bảo đảm thi hành án.

- Bị đơn ông Nguyễn Nhất D2 - bà Nguyễn Thị Ngọc D1 ủy quyền cho Ông Lê Quang H1 đại diện trình bày:

Ông H1 thừa nhận ông D2 - bà D1 có ký hợp đồng tín dụng với nguyên đơn, cụ thể: Hợp đồng tín dụng theo hạn mức số 2022581/KHBL-HM ngày 17/06/2022 với nội dung: Ngân hàng cho ông D2 - bà D1 vay số tiền 10.000.000.000 đồng. Mục đích sử dụng: Bổ sung vốn kinh doanh vật liệu xây dựng; thời hạn vay là 06 tháng; lãi suất trong hạn: Được xác định tại thời điểm giải ngân vốn vay theo thông báo lãi suất cho vay của ngân hàng trong từng thời kỳ và được ghi trên từng Giấy nhận nợ. Hiện đang áp dụng: 7.8%, cố định trong suốt thời gian vay; lãi suất quá hạn: 130% lãi suất cho vay trong hạn. Sau khi ký hợp đồng thì Ngân hàng đã giải ngân cho ông D2 - bà D1 vay số tiền 10.000.000.000đ nêu trên.

Để bảo đảm cho khoản vay trên, ông D2 - bà D1 đã thế chấp quyền sử dụng đất các thửa số 267, 268, 269 và thửa số 297 tờ bản đồ số 54 xã V, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Hợp đồng thế chấp nêu trên đã được Văn phòng C công chứng ngày 26/01/2019 và các thoả thuận sửa đổi thế chấp ngày 22/3/2019, ngày 23/9/2020, ngày 20/5/2021. Việc thế chấp đã được đăng ký ngày 28/01/2019 tại Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ, chi nhánh N2.

Theo hợp đồng tín dụng thể hiện ông D2 - bà D1 đã nhận nợ 03 lần với tổng số tiền nhận nợ 10.000.000.000 đồng và có trách nhiệm trả lãi vào ngày 08 hàng tháng, kỳ trả nợ đầu tiên vào ngày 08/07/2022. Tuy nhiên, hiện nay ông D2 bà D1 gặp khó khăn về kinh tế nên không thanh toán nợ gốc, lãi theo đúng thoả thuận với Ngân hàng. Ông D2 và D1 xác định còn nợ của nguyên đơn số tiền tính đến ngày 18/5/2023 là: 10.667.956.165 đồng, trong đó: nợ gốc là 10.000.000.000 đồng, nợ lãi là 573.369.863 đồng, nợ lãi quá hạn là 94.586.302 đồng. Ông D2 - bà D1 đề nghị nguyên đơn cho gia hạn đến tháng 7/2023 sẽ thanh toán gốc, lãi và xin được miễn tiền lãi quá hạn.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thành N: Không đến Tòa án tham gia tố tụng và cung cấp chứng cứ để giải quyết vụ án.

Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 01/2023/KDTM-ST ngày 18 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch đã căn cứ các Điều 30, 35, 39, 147, 227, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 317, 318, 319, 325, 466, 468 Bộ luật dân sự năm 2015; các Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng; Án lệ số Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP N1 đối với bị đơn ông Nguyễn Nhất D2 và bà Nguyễn Thị Ngọc D1 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

Xử buộc ông Nguyễn Nhất D2 và bà Nguyễn Thị Ngọc D1 phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP N1 tổng số tiền nợ gốc lãi là 10.667.956.165 đồng (Mười tỷ sáu trăm sáu mươi bảy triệu chín trăm năm mươi sáu nghìn một trăm sáu mươi lăm đồng). Trong đó, tiền gốc là 10.000.000.000 đồng và tiền lãi là 667.956.165 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông D2 - bà D1 còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Đối với quyền sử dụng đất các thửa số 267, 268, 269 và thửa số 297 tờ bản đồ số 54 xã V, huyện N, tỉnh Đồng Nai là các tài sản thế chấp được đảm bảo thi hành án.

2. Về án phí: Ông Nguyễn Nhất D2 - bà Nguyễn Thị Ngọc D1 phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 118.667.956 đồng (Một trăm mười tám triệu sáu trăm sáu mươi bảy nghìn chín trăm năm mươi sáu đồng).

Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP N1 số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 59.048.000 đồng (Năm mươi chín triệu không trăm bốn mươi tám nghìn đồng) theo biên lai số 0008684 ngày 16/11/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về quyền, nghĩa vụ thi hành án theo Luật thi hành án dân sự và quyền kháng cáo theo luật định.

Kháng cáo:

Ngày 31/5/2023 bà Nguyễn Thị Ngọc D1 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm xét xử hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, lý do: cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và nội dung giải quyết vụ án, ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn phát biểu tranh luận: Nội dung phát biểu được thể hiện trong bản ý kiến pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn đã được công khai tại phiên tòa. Tóm lại, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến các yêu cầu của bị đơn, giải quyết theo quy định của pháp luật.

Phần phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm:

. Về việc chấp hành pháp luật tố tụng:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử: Tòa cấp phúc thẩm đã thực hiện việc thụ lý, phân công Thẩm phán làm chủ tọa giải quyết vụ án, đảm bảo quyền kháng cáo. Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định về việc thu thập chứng cứ, việc cấp tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ cho đương sự và chuyền hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu đúng thời gian quy định. Hội đồng xét xử thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, đảm bảo đúng thành phần, vô tư, khách quan và không có trường hợp phải thay đổi người tiến hành tố tụng; đồng thời, thủ tục phiên tòa được thực hiện đầy đủ và đúng quy định.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay các đương sự đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, 71, 72 và 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

. Quan điểm của Kiểm sát viên đối với kháng cáo: Nội dung phát biểu của Kiểm sát viên được thể hiện trong bài ý kiến phát biểu đã được công khai tại phiên tòa. Tóm lại, nội dung lập luận cho rằng yêu cầu kháng cáo là không có cơ sở chấp nhận theo quy định của pháp luật, bản án sơ thẩm giải quyết là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc D1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về Tố tụng:

Kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc D1 làm trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện nguyên đơn, đại diện bị đơn, người bảo vệ quyền lợi cho bị đơn có mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, theo quy định của tố tụng Tòa án vẫn tiến hành xét xử.

[2] Về quan hệ tranh chấp và tư cách đương sự: Cấp sơ thẩm xác định đúng và đầy đủ.

[3] Về nội dung:

Ngân hàng Thương mại Cổ phần N1 khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị Ngọc D1 - ông Nguyễn Nhất D2 phải thực hiện nghĩa vụ trả cho Ngân hàng TMCP N1 toàn bộ số tiền tính đến ngày 18/5/2023 là: 10.667.956.165 đồng, trong đó: Nợ gốc là 10.000.000.000 đồng, nợ lãi là 573.369.863 đồng, nợ lãi quá hạn là 94.586.302 đồng vì bà D1 - ông D2 đã vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc D1 - ông Nguyễn Nhất D2 thừa nhận số nợ đối với Ngân hàng theo hợp đồng tín dụng, nhưng xin gia hạn đến tháng 7/2023 sẽ thanh toán gốc, lãi và xin được miễn tiền lãi quá hạn.

[4] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc D1 :

[4.1] Xét Hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng TMCP N1 và bà Nguyễn Thị Ngọc D1 - ông Nguyễn Nhất D2 được ký kết trên cơ sở tự nguyện, tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật, do vậy các bên trong hợp đồng phải có trách nhiệm thực hiện và phải chịu các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng này, trong đó bao gồm việc bên vay phải có trách nhiệm thanh toán tiền nợ gốc, tiền nợ lãi cho bên cho vay theo đúng hợp đồng. Trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa án cấp sơ thẩm giữa nguyên đơn Ngân hàng và bị đơn bà D1 - ông D2 (Do ông Lê Quang H1 làm đại diện) đều thống nhất số tiền nợ gốc, nợ lãi theo đúng như yêu cầu của phía Ngân hàng, tuy nhiên bị đơn có đề nghị Ngân hàng cho gia hạn thời hạn thanh toán nợ gốc, lãi và xin miễn tiền lãi quá hạn nhưng Ngân hàng không chấp nhận. Căn cứ vào quy định của pháp luật, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc bị đơn bà D1, ông H2 có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng TMCP N1 số tiền nợ gốc là 10.000.000.000 đồng và tiền lãi là 667.956.165 đồng là có căn cứ.

[4.2] Xét Hợp đồng thế chấp đế đảm bảo cho khoản vay theo hợp đồng tín dụng:

Bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc D1 - ông Nguyễn Nhất D2 thế chấp quyền sử dụng đất các thửa số 267, 268, 269 và thửa số 297 tờ bản đồ số 54 xã V, huyện N, tỉnh Đồng Nai để bảo đảm cho khoản vay nói trên. Hợp đồng thế chấp đã được Văn phòng C công chứng ngày 26/01/2019 và các thoả thuận sửa đổi thế chấp ngày 22/3/2019, ngày 23/9/2020, ngày 20/5/2021. Việc thế chấp đã được đăng ký ngày 28/01/2019 tại Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ - Chi nhánh N2.

Xét việc các bên giao kết hợp đồng thế chấp là hoàn toàn tự nguyện, không trái với quy định của pháp luật, nên các bên giao kết có nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm của mình đã thoả thuận trong hợp đồng. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc các tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp được đảm bảo đề thi hành án đối với khoản nợ tín dụng của Ngân hàng TMCP N1 là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật.

[4.3] Bị đơn bà D1 kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị đơn không cung cấp được chứng cứ nào chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình, đại diện Ngân hàng TMCP NI vẫn giữ nguyên yêu cầu buộc bị đơn phải thanh toán toàn bộ số tiền nợ gốc, nợ lãi theo thoả thuận trong Hợp đồng tín dụng cho Ngân hàng, nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà D1.

[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc D1 phải chịu án phí phúc thẩm.

[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa là phù hợp nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc D1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Căn cứ các Điều 317, 318, 319, 325, 466, 468 Bộ luật dân sự năm 2015; các Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng; Án lệ số 08/2016/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/8/2016 và công bố theo Quyết định số 698/QĐ.CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án của UBTVQH số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/02/2009.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP N1 đối với bị đơn ông Nguyễn Nhất D2 và bà Nguyễn Thị Ngọc D1 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

Xử buộc ông Nguyễn Nhất D2 và bà Nguyễn Thị Ngọc D1 phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP N1 tổng số tiền nợ gốc lãi là 10.667.956.165 đồng (Mười tỷ sáu trăm sáu mươi bảy triệu chín trăm năm mươi sáu nghìn một trăm sáu mươi lăm đồng). Trong đó, tiền gốc là 10.000.000.000 đồng và tiền lãi là 667.956.165 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông D2 - bà D1 còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Đối với quyền sử dụng đất các thửa số 267, 268, 269 và thửa số 297 tờ bản đồ số 54 xã V, huyện N, tỉnh Đồng Nai là các tài sản thế chấp được đảm bảo thi hành án.

2. Về án phí: Ông Nguyễn Nhất D2 - bà Nguyễn Thị Ngọc D1 phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 118.667.956 đồng (Một trăm mười tám triệu sáu trăm sáu mươi bảy nghìn chín trăm năm mươi sáu đồng).

Bà Nguyễn Thị Ngọc D1 phải chịu 2.000.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm. Số tiền 2.000.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm bà DI đã nộp (Theo biên lai thu số 0001556 ngày 13/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch) được tính trừ vào án phí phúc thẩm bà D1 phải chịu.

Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP N1 số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 59.048.000 đồng (Theo biên lai thu số 0008684 ngày 16/11/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch).

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 08/2024/KDTM-PT về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:08/2024/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 26/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;