Bản án 08/2024/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NA HANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 08/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 3 năm 2024, tại điểm cầu Trung tâm Trụ sở Tòa án Nhân dân huyện H, tỉnh T và điểm cầu thành phần Trại Tạm giam Công an tỉnh T, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2024/TLST-HS ngày 12/3/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2024/QĐXXST-HS, ngày 12/3/2023, đối với các bị cáo:

1. DƯƠNG VĂN C; Sinh ngày 10/8/1993, tại: huyện B, tỉnh C;

Nơi cư trú: xóm B V, xã Y Th, huyện B, tỉnh C;

Dân tộc: Tày; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 11/12;

nghề nghiệp: Lao động tự do; chức vụ (đảng, đoàn thể): Không; con ông Dương Văn M (đã chết) và bà Dương Thị Y, sinh năm 1971; vợ: Nông Thị N, sinh năm 1997 (Đã ly hôn); có 02 con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2019;

Tiền án: Ngày 12/5/2021 bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh T tuyên phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Bản án số 17/2021/HS-ST, chấp hành xong án phạt tù ngày 25/01/2022.

Tiền sự, Nh thân: không;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/10/2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh T. Có mặt.

2. DƯƠNG MINH N; Sinh ngày: 10/6/2001, tại: huyện H, tỉnh T;

Nơi cư trú: Thôn N Th, xã Th G, huyện H, tỉnh T.

Dân tộc: Tày; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; chức vụ (đảng, đoàn thể): Không; con ông Dương Văn Lăng, sinh năm 1979 và bà Phùng Thị Danh, sinh năm 1974; vợ, con: Chưa có;

Tiền án, tiền sự, Nh thân: Không;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/10/2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh T; Có mặt.

* Những người làm chứng:

1. Vi Văn Đ, sinh năm: 1992.

Nơi cư trú: Thôn N Th, xã Th G, huyện H, tỉnh T.

2. Vi Văn Thành, sinh năm: 1998.

Nơi cư trú: Thôn B M, xã Th G, huyện H, tỉnh T. Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 18/10/2023, DƯƠNG VĂN C một mình đi đến thị trấn Pắc Miầu, huyện B, tỉnh C tìm mua ma tuý, loại Heroine để bán cho người nghiện kiếm lời. Tại khu vực Trung tâm y tế huyện B, C gặp một người đàn ông tên T (không rõ họ, địa chỉ), C hỏi T mua Heroine với số tiền 3.000.000 đồng, T cầm tiền và bảo C đợi ở khu vực Kẹm Đá, thuộc tổ 2 thị trấn Pắc Miầu, huyện B; khoảng 30 phút sau, T đưa cho C 01 gói nilon màu xanh, bên trong là Heroine, C cất số Heroine vừa mua vào trong túi áo khoác bò màu xanh đang mặc rồi đi về nhà. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, C nhận được điện thoại của Vi Văn Đ hỏi mua ma tuý, do đang trên đường về nên C bảo Đ đợi.

Trước đó vào khoảng 18 giờ ngày 18/10/2023, Vi Văn Đ và Vi Văn Thành đứng chơi ở khu vực trung tâm xã Thượng Giáp, huyện H thì gặp DƯƠNG MINH N. Thành rủ Đ và Nh đi sang xã Y Thổ, huyện B, tỉnh C tìm mua ma tuý về sử dụng, Nh và Đ đồng ý. Sau đó Đ gọi điện cho C hỏi mua ma tuý và được C bảo đứng đợi nên Nh, Đ và Thành đứng ngoài đường liên thôn gần nhà C chờ. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, C đi về đến nhà thì thấy Phùng Văn Th, sinh năm 1979 (trú cùng thôn) đang ở nhà C; C bảo Th đi ra hỏi nhóm của Đ mua ma tuý như nào, Th đi ra thì Nh đưa cho Th 200.000 đồng để mua ma tuý, Th cầm tiền quay lại đứng ở dưới gầm sàn đưa tiền qua khe ván nhà sàn cho C, C lấy một ít Heroine gói vào 02 lớp giấy bạc màu vàng đưa lại cho Th, Th cầm gói Heroine đi ra ngoài đường đưa cho Nh, Nh đi ra chỗ vắng người lấy một ít Heorine vừa mua được sử dụng bằng hình thức tiêm chích vào cơ thể, số Heroine còn lại Nh gói như cũ và cất vào túi quần phía trước bên phải đang mặc.

Tiếp đó, Đ đưa cho Th số tiền 300.000 đồng để mua Heroine (trong đó Đ góp 150.000 đồng, Thành góp 150.000 đồng, Đ là người trực tiếp giao dịch mua ma tuý), Th cầm tiền quay lại đứng ở dưới gầm sàn đưa tiền qua khe ván nhà sàn cho C, C lấy 01 ít Heroine gói vào lớp giấy bạc màu vàng đưa lại cho Th, Th cầm gói Heroine đi ra ngoài đường đưa cho Đ. Đ và Thành chia nhau số ma tuý vừa được và sử dụng hết bằng hình thức tiêm chích vào cơ thể; Th quay trở lại nhà thì được C chia cho một ít Heroine để sử dụng; còn Đ, Thành, Nh đi về, đến thôn Bản Muồng thì Nh xuống xe. Đến hồi 22 giờ 40 phút cùng ngày, Nh đi bộ đến đoạn đường thôn Bản Muồng, xã Thượng Giáp, huyện H thì gặp tổ công tác Công an huyện H kiểm tra, phát hiện trong túi quần phía trước bên phải của Nh có 01 gói Heroine nên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng. Tại Cơ quan điều tra, Nh khai nhận gói nhỏ thu giữ là Heroine, Nh mua của DƯƠNG VĂN C và tàng trữ để sử dụng.

Ngày 19/10/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh T thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp người và chỗ ở đối với DƯƠNG VĂN C. Quá trình khám xét đã phát hiện: Tại túi bên phải chiếc áo khoác bò màu xanh để trên giường ngủ của DƯƠNG VĂN C có 01 gói bằng túi nilon màu xanh, bên trong là Heroine; tại túi xách màu xanh đen ở đầu giường ngủ của C có 01 hộp gỗ hình dáng giống cây đàn được ghép bởi hai mảnh, một đầu được buộc lại với nhau bằng dây cao su màu đen, hộp gỗ có kích thước (28,5 x07)cm, bên trong hộp có 01 cân tiểu ly; 02 xi lanh, 02 lọ nước cất (đều chưa qua sử dụng). C tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max, vỏ màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A73, vỏ màu xanh; số tiền 3.300.000 đồng. Tại Cơ quan điều tra, DƯƠNG VĂN C khai nhận số ma tuý tạm giữ trong quá trình khám xét khẩn cấp người và chỗ ở của C tàng trữ ma tuý để bán cho người nghiện.

Kết quả xét nghiệm tìm chất ma túy ngày 19/10/2023 đối với DƯƠNG VĂN C, DƯƠNG MINH N: (+) Dương tính với Heroine.

Tại Kết luận giám định số: 1371/KL-KTHS ngày 23/10/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, kết luận:

- Mẫu vật gửi giám định trong phong bì ký hiệu A1 thu giữ của DƯƠNG MINH N gửi giám định là chất ma tuý, loại Heroine (heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine, quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma tuý và tiền chất; khối lượng 0,203g (không phẩy hai không ba gam);

- Mẫu vật gửi giám định trong phong bì ký hiệu A2 thu giữ của DƯƠNG VĂN C gửi giám định là chất ma tuý, loại Heroine (heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine, quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma tuý và tiền chất; khối 1,132g (Một phẩy, một ba hai gam);

Vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã tạm giữ của DƯƠNG VĂN C 01 phong bì niêm phong có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, bên trong là chất ma tuý, loại Heroine; Tạm giữ của DƯƠNG VĂN C 01 hộp gỗ hình dáng giống cây đàn được ghép bởi hai mảnh, một đầu được buộc lại với nhau bằng dây cao su màu đen, hộp gỗ có kích thước (28,5 x 07) cm, bên trong hộp có 01 cân tiểu ly; 02 xi lanh, 02 lọ nước cất (đều chưa qua sử dụng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max, vỏ màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A73, vỏ màu xanh; số tiền 3.300.000 đồng.

Quá trình điều tra làm rõ trong tổng số tiền 3.300.000 đồng tạm giữ của DƯƠNG VĂN C có 800.000 đồng là tài sản của DƯƠNG VĂN C, còn số tiền 2.500.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max, vỏ màu đen là tài sản thuộc sở hữu của Dương Văn Công, sinh năm 1996, trú tại xóm B V, xã Y Th, huyện B, tỉnh C (em trai của C), không liên quan đến vụ án. Ngày 04/12/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã ban hành Quyết định xử lý vật chứng số:

20, trả lại số tiền 2.500.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max, vỏ màu đen cho Dương Văn Công.

Tại Cơ quan điều tra các bị cáo DƯƠNG VĂN C, DƯƠNG MINH N đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 08/CT- VKSNH ngày 11 tháng 3 năm 2024 của Viện kiểm sát Nhân dân huyện H, tỉnh T đã truy tố: DƯƠNG VĂN C về tội Mua bán trái phép chất ma tuý, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; DƯƠNG MINH N về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo DƯƠNG VĂN C phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy; DƯƠNG MINH N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo DƯƠNG VĂN C từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (Ngày 19/10/2023);

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo DƯƠNG MINH N từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù, hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (Ngày 19/10/2023);

Không phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự;

Đề nghị tịch thu, tiêu hủy:

01 phong bì niêm phong có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T; chữ ký của DƯƠNG VĂN C và DƯƠNG MINH N;

01 hộp gỗ hình dáng giống cây đàn được ghép bởi hai mảnh, một đầu được buộc lại với nhau bằng dây cao su màu đen, hộp gỗ có kích thước (28,5 x 07)cm, bên trong hộp có 01 cân tiểu ly; 02 xi lanh, 02 lọ nước cất (đều chưa qua sử dụng) (thu giữ của DƯƠNG VĂN C);

Tịch thu sung quỹ nhà nước 500.000đ do DƯƠNG VĂN C bán trái phép chất ma túy mà có.

Trả lại DƯƠNG VĂN C 01 điện thoại di động nhãn hiệu nhãn hiệu OPPO A73, vỏ màu xanh; số tiền 300.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm; áp dụng các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự để tuyên quyền kháng cáo đối với các bị cáo.

Tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi bị truy tố và xin Hội đồng xét xử cho hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát Nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của các bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản khám xét; vật chứng thu giữ; kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, từ chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận:

Đối với DƯƠNG VĂN C: Khoảng 21 giờ ngày 18/10/2023 tại thôn B V, xã Y Th, huyện B, tỉnh C, DƯƠNG VĂN C đã có 02 lần bán trái phép chất ma túy cho DƯƠNG MINH N; Vi Văn Đ và Vi Văn Thành, hưởng lợi 500.000 đồng, trong đó:

- Lần thứ nhất: Bán trái phép cho DƯƠNG MINH N 01 gói Heroine, với giá 200.000 đồng;

- Lần thứ hai: Bán trái phép cho Vi Văn Đ và Vi Văn Thành 01 gói Heroine, với giá 300.000 đồng (Đ là người trực tiếp giao dịch mua ma tuý).

DƯƠNG VĂN C còn có hành vi tàng trữ trái phép 1,132g Heroine, mục đích để bán cho người nghiện ma túy.

Đối với DƯƠNG MINH N: Vào hồi 22 giờ 40 phút ngày 18/10/2023, tại thôn Bản Muồng, xã Thượng Giáp, huyện H, DƯƠNG MINH N đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,203g Heroine, mục đích tàng trữ để sử dụng.

Viện kiểm sát Nhân dân huyện H, tỉnh T truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, đồng thời còn là nguyên Nh làm lan truyền tệ nạn ma tuý và phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hoàn toàn nhận thức được ma tuý là vật mà Nhà nước cấm lưu hành.

[3] Vị trí, vai trò của từng bị cáo; T tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Nh thân bị cáo và quyết định hình phạt chính.

Trong vụ án này các bị cáo phạm tội độc lập với nhau.

Bị cáo DƯƠNG VĂN C có 01 có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo DƯƠNG MINH N có Nh thân tốt – đây là lần đầu phạm tội.

Các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Các bị cáo đều là dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức còn hạn chế. Do đó Hội đồng xét xử xác định đây là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đối với cả hai bị cáo đều cần xử mức hình phạt tù có thời hạn, tương xứng với tính chất hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và Nh thân của từng bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung có hiệu quả.

Đề nghị của Kiểm sát viên về việc áp dụng mức hình phạt chính đối với các bị cáo là phù hợp.

[4] Về hình phạt bổ sung:

HĐXX thấy rằng: Bị cáo DƯƠNG VĂN C thuộc diện hộ cận nghèo; Bị cáo DƯƠNG MINH N tàng trữ ma túy không có tính vụ lợi nên không phạt tiền bổ sung các bị cáo. Đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.

[5] Biện pháp tư pháp:

Tịch của bị cáo DƯƠNG VĂN C 500.000đ do bị cáo pham tội mà có.

Về vật chứng: Ma túy thu giữ là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành; cân tiểu ly, các đồ dùng dụng cụ khác như xi lanh, nước cất, hộp gỗ dạng cây đàn bị cáo dùng vào việc phạm tội đã cũ hỏng do đó áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự để tịch thu, tiêu hủy.

Điện thoại di động của bị cáo C, ngoài việc sử dụng liên lạc để bán ma tuý bị cáo còn sử dụng vào các liên lạc khác trong cuộc sống, do đó trả lại cho bị cáo. Số tiền 300.000đ của bị cáo được trả lại cho bị cáo C nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6] Về án phí, quyền kháng cáo:

Các bị cáo DƯƠNG VĂN C, DƯƠNG MINH N, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của các Điều 331, 332 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự, [7] Các vấn đề khác:

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của các bị cáo DƯƠNG VĂN C, DƯƠNG MINH N vào ngày 18/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã chuyển tài liệu có liên quan đến Công an huyện H để xử lý hành chính theo thẩm quyền, bằng hình thức Phạt tiền là phù hợp.

Đối với Vi Văn Đ, Vi Văn Thành: quá trình điều tra, Đ và Thành khai nhận có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý vào ngày 18/10/2023 tại xóm B V, xã Y Th, huyện B, tỉnh C, tuy nhiên kết quả xét nghiệm tìm chất ma tuý ngày 23 và 24/10/2023 tại Công an huyện H xác định Thành, Đ (-) Âm tính với ma tuý nên không có căn cứ xử lý. Đ và Thành không biết DƯƠNG MINH N tàng trữ ma tuý nên không có căn cứ xử lý với vai trò đồng phạm trong vụ án.

Đối với người đàn ông tên T đã bán trái phép chất ma tuý cho DƯƠNG VĂN C tại khu vực thị trấn Pắc Miầu, huyện B, tỉnh C, quá trình điều tra không xác định được tên, địa chỉ, nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Đối với Phùng Văn Th có hành vi giúp sức cho DƯƠNG VĂN C bán trái phép chất ma tuý, qua xác minh Th vắng mặt tại nơi cư trú, không rõ đi đâu, làm gì. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã tách hành vi và tài liệu liên quan đến Phùng Văn Th để khởi tố trong vụ án khác và tiếp tục điều tra, làm rõ.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố:

Bị cáo DƯƠNG VĂN C phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Bị cáo DƯƠNG MINH N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng:

Điểm b khoản 2 Điều 251; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo DƯƠNG VĂN C 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù, hạn tù tính từ ngày 19/10/2023.

Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo DƯƠNG MINH N 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, hạn tù tính từ ngày 19/10/2023.

3. Biện pháp tư pháp.

Căn cứ: Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T; chữ ký của DƯƠNG VĂN C và DƯƠNG MINH N; 01 hộp gỗ hình dáng giống cây đàn được ghép bởi hai mảnh, một đầu được buộc lại với nhau bằng dây cao su màu đen, hộp gỗ có kích thước (28,5 x 07)cm; 01 cân tiểu ly; 02 xi lanh; 02 lọ nước cất.

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) do DƯƠNG VĂN C bán trái phép chất ma túy mà có.

+ Trả lại DƯƠNG VĂN C 01 điện thoại di động nhãn hiệu nhãn hiệu OPPO A73, vỏ màu xanh; số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(T trạng vật chứng như Biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 21/3/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H với Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh T).

Số tiền thu giữ đang được quản lý tại tài khoản của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện H mở tại kho bạc nhà nước huyện H theo Công văn chuyển tiền số 757/CAH-HS-KTMT ngày 22/3/2024 của Công an huyện H.

4. Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo DƯƠNG VĂN C và DƯƠNG MINH N mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Căn cứ các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 08/2024/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:08/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nà Hang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;