TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG SƠN, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 08/2023/HS-ST NGÀY 06/02/2023 VỀ TỘI VU KHỐNG
Ngày 06 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số: 02/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2023/QĐXXST-HS ngày 27/01/2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lê Văn Tuấn A; Sinh năm: 1996; Nơi cư trú: Thôn HT, xã ĐH, huyện ĐS, tỉnh Thanh Hóa. Dân tộc Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá:
6/12. Con ông Lê Văn D và bà Nguyễn Thị C. Bị cáo chưa có vợ. Gia đình bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ 3. Tiền án: Không; Tiền sự : Ngày 25/11/2020 bị Công an huyện Đông Sơn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khoẻ người khác.
Nhân thân: Ngày 07/7/2020, bị UBND xã Đông Hoà ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khoẻ người khác. Đã chấp hành xong ngày 08/7/2020.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 11/11/2022 tại nhà tạm giữ Công an huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Bị cáo hiện có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Nguyễn Hữu T, sinh năm 1988; Địa chỉ: Thôn D 1, xã Đông Yên, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (có mặt).
- Người làm chứng: 1, A Lê Quang H, sinh năm 1994; Địa chỉ: Thôn D 1, xã Đông Yên, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).
2, A Đinh Tiến M, sinh năm 1988; Địa chỉ: Thôn T, xã Đông Hòa, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).
3, A Thiều Quốc H1, sinh năm 1986; Địa chỉ: Thôn D 1, xã Đông Yên, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 09 giờ ngày 11/9/2022, Lê Văn Tuấn A đến Công an huyện Đông Sơn tố cáo về việc: Khoảng 19 giờ ngày 07/9/2022 Lê VănTuấn A đang điều khiển xe mô tô BKS 36B8-xxxxxx nhãn hiệu Honda; loại xe Vision, màu sơn: xanh, nâu, đen đi từ xã Đông Hòa, huyện Đông Sơn ra đường Quốc lộ 47. Khi đi đến địa phận xã Đông Minh, huyện Đông Sơn thì bị một chiếc xe ô tô (không rõ đặc điểm) đi cùng chiều, phía sau ép xe mô tô do Tuấn A điều khiển. Sau đó, có 02 người đàn ông từ trên xe ô tô xuống, trong đó có một người là Nguyễn Hữu T xuống đánh và cướp xe củaTuấn A. Trong cốp xe của Tuấn A có để 100.000.000 đồng.
Sau khi tiếp nhận đơn tố cáo, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đông Sơn đã ra quyết định giải quyết tin báo tố giác số 38/QĐ-ĐTTH ngày 13/9/2022 để tiến hành kiểm tra, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ kết quả, xác định: không có sự việc Tuấn A bị Nguyễn Hữu T cướp xe mô tô BKS: 36B8-xxxxxx và 100.000.000 đồng vào hồi 19 giờ ngày 07/9/2022; việc Tuấn A đến Cơ quan Công an tố cáo bị Nguyễn Hữu T cướp tài sản là nhằm mục đích vu khống cho anh Nguyễn Hữu T.
Ngày 15/12/2022 Hội đồng định giá UBND huyện Đông Sơn kết luận giá trị xe mô tô BKS 36B8-xxxxxx nhãn hiệu Honda; loại xe Vision, màu sơn: xanh, nâu, đen có giá trị 28.480.000 đồng.
Quá trình điều tra cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đông Sơn đã thu thập tài liệu chứng cứ thể hiện: Vào trưa ngày 08/9/2022, anh Lê Quang H đến nhà Đinh Tiến M chơi. Đến 15 giờ 30 phút cùng ngày thì H gọi điện cho Tuấn A để nhờ Tuấn A đến nhà M đưa H về nhà. Sau đó Tuấn A điều khiển xe mô tô BKS 36B8-xxxxxx nhãn hiệu Honda; loại xe Vision, màu sơn:
xanh, nâu, đen (đây là xe mô tô Tuấn A mượn của M trước đó) sang gần cổng nhà anh M rồi đưa xe này cho H mượn đi về. Đến khoảng 16 giờ ngày 08/9/2022, H điều khiển xe mô tô BKS 36B8-xxxxxx đi về nhà bà H thì gặp Nguyễn Hữu T và Thiều Quốc H1 đang lăn sơn cho nhà bà H. Sau đó, H đưa xe mô tô BKS 36B8-xxxxxx anh T mượn. Đến tối cùng ngày Tuấn A gọi điện yêu cầu H trả xe thì được H cho biết là đã đưa xe cho anh T mượn. Do không lấy lại được xe từ anh H và biết anh T là người đang giữ chiếc xe mô tô BKS 36B8-xxxx đồng thời do trước đây giữa Tuấn A và anh T có mâu thuẫn với nhau về việc anh T đã chửi bới Tuấn A nên Tuấn A đã làm đơn trình báo đến Công an huyện Đông Sơn tố cáo anh Nguyễn Hữu T cướp xe mô tô của Tuấn A mục đích vu khống để trả thù cá nhân.
Tại bản cáo trạng số: 07/CT - VKSĐS ngày 16/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Sơn đã truy tố bị cáo Lê Văn Tuấn A về tội: Vu khống theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 156 BLHS.
Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
- Về phần hình sự: Đề nghị tuyên bị cáo Lê Văn Tuấn A phạm tội: Vu khống.
Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 156; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; Khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/QH14 của Quốc hội Tuyên phạt bị cáo Lê Văn Tuấn A từ 12 (mười hai) tháng tù đến 15 (mười lăm) tháng tù.
Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí HSST theo quy định của pháp luật. Quan điểm của bị hại Nguyễn Hữu T:
- Về phần hình phạt: Nhất trí với đề nghị của Viện kiểm sát, đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.
Lời sau cùng trước khi nghị án:
Bị cáo Lê Văn Tuấn A đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Sau khi thẩm tra các chứng cứ có trong hồ sơ, nghe lời khai của bị cáo, quan điểm của bị hại, ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo và bị hại không có ý kiến nào hoặc khiếu nại về hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa hôm nay qua thẩm vấn công khai bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác phản ánh tại hồ sơ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Vào hồi 09 giờ ngày 11/9/2022, Lê Văn Tuấn A đến Công an huyện Đông Sơn tố cáo Nguyễn Hữu T cướp xe mô tô BKS 36B8-xxxxxx trị giá 28.480.000 đồng và 100.000.000 đồng của Tuấn A để trong cốp xe. Sau khi tiếp nhận đơn tố cáo, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đông Sơn đã tiến hành điều tra kết quả xác định: không có sự việc Tuấn A bị Nguyễn Hữu T cướp xe và 100.000.000 đồng. Việc Tuấn A đến Cơ quan Công an tố cáo bị Nguyễn Hữu T cướp tài sản là nhằm mục đích vu khống cho anh Nguyễn Hữu T để trả thù mâu thuẫn cá nhân.
Do vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Sơn truy tố bị cáo Lê Văn Tuấn A theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 156 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì thấy: Bản thân Lê Văn Tuấn A nhận thức được hành vi Vu khống là vi phạm pháp luật nhưng chỉ vì có mâu thuẫn với anh Nguyễn Hữu T nên Lê Văn Tuấn A đã bịa đặt và tố cáo tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Đông Sơn những điều không đúng với sự thật và có nội dung xuyên tạc vu khống cho anh Nguyễn Hữu T cướp chiếc xe mô tô BKS: 36B8-xxxxxx và số tiền 100.000.000đ đồng để trong cốp xe nhằm xúc phạm danh dự của anh T.
Hành vi của bị cáo Lê Văn Tuấn A đã xâm phạm danh dự và các quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội nên cần xử lý nghiêm khắc để không gây ảnh hưởng xấu trong dư luận.
[4]. Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Mặc dù bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nhiêm trọng có khung hình phạt cao nhất đến 3 năm, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng bị cáo có 01 tiền sự và nhân thân xấu: Ngày 25/11/2020 bị Công an huyện Đông Sơn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khoẻ người khác. Ngày 07/7/2020 bị UBND xã Đông Hoà ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khoẻ người nên xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo Lê Văn Tuấn A khỏi xã hội một thời gian tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo để giáo dục chung và phòng ngừa riêng.
Khi quyết định hình phạt cần cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS vì: Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo và thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 156 Bộ luật hình sự thì bị cáo Lê Văn Tuấn A có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo không có nghề nghiệp ổn định. Vì vậy, HĐXX quyết định miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6]. Xét về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Hữu T không có yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.
[7] Đối với đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Sơn là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.
[8]. Bị cáo và người bị hại được quyền kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân được quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.
[9]. Bị cáo Lê Văn Tuấn A không thuộc đối tượng được miễn hoặc không phải nộp án phí nên phải chịu án phí HSST.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 156; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS; Khoản 2 Điều 136; Các Điều 331; 333; 336; 337 BLTTHS; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
2. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Văn Tuấn A phạm tội: Vu khống
3. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Văn Tuấn A 12 (mười hai) tháng tù. Thời gian thi hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam, ngày 11/11/2022.
4. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Văn Tuấn A phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí HSST.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 08/2023/HS-ST về tội vu khống
Số hiệu: | 08/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/02/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về