Bản án 08/2021/HS-ST ngày 18/01/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN X LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 08/2021/HS-ST NGÀY 18/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

 Vào ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện X Lộc xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 206/2020/HSST ngày 29 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

1. Nguyễn Kim T, sinh năm 1996, tại Đồng Nai; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp 3, xã X, huyện X, tỉnh Đ; Nơi cư trú: ấp 3, xã X, huyện X, tỉnh Đ; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 09/12; Con Ôg: Nguyễn Kim C sinh năm: 1962 và bà Trương Thị T, sinh năm: 1964; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Ngày 20/9/2020 đến ngày 22/9/2020 bị tạm giữ về hành vi đánh bạc. Ngày 22/9/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện X khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

2. Trần Văn L, sinh năm 1994 tại Đồng Nai; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp 5, xã X, huyện X, tỉnh Đ; Nơi cư trú: ấp 5, xã X Hưng, huyện X Lộc,tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 12/12;

Dân Tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con Ôg: Trần Văn Q, sinh năm 1956 và bà: Nguyễn Thị G, sinh năm 1966. Vợ: Bùi Thị Thu T, sinh năm 1993. Con: Có 01 người sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không. Ngày 20/9/2020 đến ngày 22/9/2020 bị tạm giữ về hành vi đánh bạc. Ngày 22/9/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện X khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

3. Nguyễn Văn S, sinh năm 1994 tại Nghệ An; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp 3, xã X, huyện X, tỉnh Đ; Nơi cư trú: ấp 3, xã X, huyện X, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ học vấn: 12/12; Dân Tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con Ôg: Nguyễn Văn V, sinh năm 1969 và bà Trần Thị L, sinh năm 1975. Vợ, con: Chưa. Tiền án, tiền sự: Không. Ngày 20/9/2020 đến ngày 22/9/2020 bị tạm giữ về hành vi đánh bạc. Ngày 22/9/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện X khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú

4. Nguyễn Trọng X, sinh năm 1992 tại Thanh Hóa; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp 3, xã X, huyện X, tỉnh Đ; Nơi cư trú: ấp 3, xã X, huyện X, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con Ôg: Nguyễn Trọng S, sinh năm 1954 và bà: Khương Thị N, sinh năm 1970; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. Ngày 20/9/2020 đến ngày 22/9/2020 bị tạm giữ về hành vi đánh bạc. Ngày 22/9/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện X khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú

5. Nguyễn Hữu T, sinh năm 1994 tại Đồng Nai; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp 1, xã X, huyện X, tỉnh Đ; Nơi cư trú: ấp 1, xã X, huyện X, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con Ôg: Nguyễn Văn Dũng, sinh năm 1972 (chết) và bà: Phan Thị Thu Hương, sinh năm 1972; Vợ, con: Chưa; Tiền án, tiền sự: Không. Ngày 20/9/2020 đến ngày 22/9/2020 bị tạm giữ về hành vi đánh bạc. Ngày 22/9/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xkhởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

6. Võ Trung H, sinh năm 1990 tại Đồng Nai; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp 1, xã X Tâm, huyện X Lộc, tỉnh Đồng Nai; Nơi cư trú: ấp 1, xã X Tâm, huyện X Lộc, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Thợ cơ khí; Trình độ học vấn: 09/12; Dân Tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con Ôg: Không rõ và bà: Võ Thị N, sinh năm 1950; Vợ: Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1992; Con: Chưa. Tiền án, tiền sự: Không; Ngày 20/9/2020 đến ngày 22/9/2020 bị tạm giữ về hành vi đánh bạc. Ngày 22/9/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện X khởi tố bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

(Các bị cáo có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Đỗ Nguyễn M C, sinh năm: 1994 ( Vắng) Địa chỉ: ấp 1, xã X Tâm, huyện X Lộc, tỉnh Đồng Nai.

2. Anh Nguyễn Văn Ô, sinh năm: 1996 (Vắng) Địa chỉ: ấp 2, xã X, huyện X, tỉnh Đ

3. Bà Hoàng Thị Lệ H, sinh năm: 1971 (Vắng) Địa chỉ: ấp 5, xã X Tâm, huyện X Lộc, tỉnh Đồng Nai

4. Anh Nguyễn Công M, sinh năm: 2000 (Vắng) Địa chỉ: ấp 1, xã X, huyện X, tỉnh Đ

5. Anh Nguyễn Công M, sinh năm: 1995 (Vắng) Địa chỉ: ấp Suối Râm, xã Long Giao, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 20/9/2020, sau khi cùng ngồi uống rượu tại quán “Lộc Phát” thuộc ấp 4, xã X Hưng, X Lộc, Nguyễn Kim T, Nguyễn Văn S, Nguyễn Trọng X, Trần Văn L và Nguyễn Hữu T đã rủ nhau cùng đến nhà bạn là Đỗ Nguyễn M C, sinh năm 1994, thuộc ấp 1, xã X Tâm, huyện X Lộc, Đồng Nai để tiếp tục uống rượu. Khi đến nhà C, do C đã uống rượu say nằm ngủ ở phòng khách nên X, L, T và S đã bàn bạc thống nhất với nhau cùng tham gia đánh bạc trái phép dưới hình thức chơi bài “Cào tố” T thua bằng tiền, riêng T do đã uống rượu say nên nằm ngủ tại phòng khách của nhà C. Sau khi đã thống nhất, T đi mua 03 bộ bài tây 52 lá và cùng tham gia đánh bạc với S, X, L tại phòng khách của nhà C. Quá trình đánh bạc được khoảng 05 ván thì Nguyễn Hữu T ngủ dậy và cùng tham gia đánh bạc với T, L, S và X. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, Võ Trung H đến nhà C chơi thấy T, L, X, S và T đang đánh bạc nên vào tham gia đánh bạc cùng thấy T, L, X, S và T.

Hình thức đánh bạc và số tiền được thua như sau: Các đối tượng sử dụng bộ bài tây 52 lá để chơi, người được ván trước sẽ được chia bài, mỗi tụ được chia 3 lá bài theo chiều kim đồng hồ, các lá bài còn dư thì đặt úp giữa chiếu bạc. Ban đầu, trước khi chia bài các tụ đặt trước 10.000 đồng gọi là tiền đường, sau khi chia bài xong các tụ xem bài của mình và lựa chọn tố, theo hoặc úp bài. Trong đó: Tố, tức người chơi có quyền cược thêm tiền tụ của mình sẽ T ván bài đang chơi, với qui định mức tiền tố từ 10.000 đồng đến 50.000 đồng. Theo tức người chơi phải bỏ ra số tiền như người trước đã tố; Úp bài nhận thua, tức bỏ đi ván bài đang chơi và người chơi bị mất đi số tiền đã cược trước đó, mỗi tụ được quyền tố tối đa 01 lần. Sau khi tố xong những tụ bài tham gia tố hoặc theo đến hết lượt thì mở bài đối chiếu tính kết quả được thua. Cách tính được thua dựa vào điểm và hình thức của bài, cách tính điểm như sau: Các lá bài “2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10” thì có số điểm tương ứng số của lá bài đó, các lá bài “J, Q, K” tương ứng 10 điểm; lá bài A (còn gọi là lá xì hay lá át) tính 1 điểm. Điểm bài là tổng điểm các lá bài cộng lại trừ đi hàng chục, về hình thức bài có các trường hợp sau 03 lá bài cùng quân bài gọi là ba cào, 03 lá bài liên tiếp tạo thành sảnh gọi là liêng, 03 lá bài bất kỳ là các quân bài J, Q, K gọi là 03 tiên. Đối chiếu tính được thua như sau: Lớn nhất là ba cào, rồi đến liêng, đến ba tiên, đến 09 điểm và nhỏ dần đến 0 điểm. Hai bài cùng ba cào thì 3 A lớn nhất, nhỏ nhất 03 lá 2, cùng liêng thì Q,K,A lớn nhất, nhỏ nhất là A,2,3, cùng 03 tiên cùng điểm thì có đôi lớn hơn, rồi tính đến quân bài cao. Hình thức đánh bài cào tố không phân biệt nhà cái mà các tụ bài trực tiếp tính được thua chung với nhau, mỗi ván chỉ có 01 tụ T hết số tiền các tụ khác, trung bình mỗi ván bài diễn ra trong thời gian từ 03 đến 05 phút.

Đến 16 giờ 10 phút cùng ngày, Nguyễn Kim T, Trần Văn L, Nguyễn Văn S, Nguyễn Trọng X, Nguyễn Hữu T và Võ Trung H đang đánh bạc thì bị Công an xã X Tâm phát hiện bắt quả tang, thu giữ tang vật và bàn giao cho Công an huyện Xtiếp nhận điều tra, xử lý theo pháp luật.

Hành vi đánh bạc và số tiền đánh bạc, kết qủa T thua của từng bị cáo cụ thể như sau:

- Nguyễn Kim T sử dụng số tiền 500.000 đồng để đánh bạc, T tham gia đánh bạc được khoảng 20 ván, kết quả T số tiền 700.000 đồng, bị thu giữ tại vị T ngồi là 1.170.000 đồng và số tiền 30.000 đặt ván cuối và thu giữ trên người số tiền 11.500.000 đồng.

- Nguyễn Văn S sử dụng số tiền 2.700.000 đồng để đánh bạc, S tham gia đánh bạc được khoảng 20 ván, kết quả T số tiền 60.000 đồng và bị thu giữ tại vị T ngồi số tiền 2.730.000 đồng và số tiền 30.000 đồng đặt ván cuối.

- Nguyễn Trọng X sử dụng số tiền 1.300.000 đồng để đánh bạc, X tham gia đánh bạc được khoảng 20 ván, kết quả T số tiền 1.060.000 đồng, bị thu giữ tại vị T ngồi số tiền số tiền 1.630.000 đồng và số tiền 30.000 đồng đặt ván cuối. Thu giữ trên người số tiền 700.000 đồng.

- Trần Văn L sử dụng số tiền 2.700.000 đồng để đánh bạc, L tham gia đánh bạc được khoảng 20 ván, kết quả T số tiền 340.000 đồng, bị thu giữ tại vị T ngồi số tiền số tiền 3.010.000 đồng và số tiền 30.000 đồng đặt ván cuối. Thu giữ trên người số tiền 14.300.000 đồng.

- Nguyễn Hữu T sử dụng số tiền 2.000.000 đồng để đánh bạc, T tham gia đánh bạc được khoảng 15 ván, kết quả hòa và bị thu giữ tại chiếu bạc số tiền 2.000.000 đồng.

- Võ Trung H sử dụng số tiền 2.200.000 đồng để đánh bạc, H tham gia đánh bạc được khoảng 10 ván, kết quả thua số tiền 2.160.000 đồng và bị thu giữ tại chiếu bạc số tiền 40.000 đồng đặt ván cuối.

* Vật chứng thu giữ và xử lý vật chứng:

- Thu giữ tại chiếu bạc: 03 (ba) bộ bài tây 52 lá (02 bộ đã qua sử dụng, 01 bộ chưa qua sử dụng) và số tiền 10.700.000 đồng (Mười triệu bảy trăm nghìn đồng).

- Thu giữ trên người Nguyễn Trọng X số tiền 700.000 đồng, thu giữ trên người Trần Văn L số tiền 14.300.000 đồng, thu giữ trên người Nguyễn Kim T số tiền 11.500.000 đồng.

- Xe mô tô biển số 60B5 – 341.46; Xe mô tô 60B6 – 354.09; Xe mô tô 60B5 – 532.07.

Bản cáo trạng số 204/CT-VKSXL ngày 26 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện X Lộc truy tố các bị cáo Nguyễn Kim T, Nguyễn Văn S, Nguyễn Trọng X, Trần Văn L, Nguyễn Hữu T, Võ Trung H về tội: “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố theo bản cáo trạng và đề nghị:

- Những tình tiết tăng nặng: Không.

- Những tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, Không có tiền án, tiền sự. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

* Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1, điều 321; Điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Kim T Nguyễn Văn S, Nguyễn Trọng X, Trần Văn L, Nguyễn Hữu T và Võ Trung H từ 06 đến 08 tháng tù.

- Hình phạt bổ sung: Không.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:

Cơ quan cảnh sát điều tra huyện X Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện X Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, biên bản lấy lời khai và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án thể hiện:

Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 20/9/2020, tại ấp 1, xã X Tâm, huyện X Lộc, Đồng Nai, Nguyễn Kim T, Nguyễn Văn S, Nguyễn Trọng X, Trần Văn L, Nguyễn Hữu T và Võ Trung H đã có hành vi Đánh bạc trái phép dưới hình thức đánh bài “cào tố” được thua bằng tiền với tổng số tiền dùng đánh bạc là 11.400.000 đồng (Mười một triệu bốn trăm nghìn đồng).

Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận hành vi của các bị cáo Nguyễn Kim T, Nguyễn Văn S, Nguyễn Trọng X, Trần Văn L, Nguyễn Hữu T và Võ Trung H đủ yếu tố cấu thành tội: “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự

[3] Về tính chất vai trò hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự, trị an tại địa phương, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác; Đồng thời gây thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều gia đình mà trước tiên là chính gia đình của các bị cáo. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau bàn bạc thống nhất và thực hiện hành vi đánh bạc. Tuy nhiên bị cáo L và bị cáo S sử dụng số tiền để đánh bạc nhiều hơn các bị cáo khác Vì vậy, áp dụng hình phạt cho bị cáo L và bị cáo S cao hơn so với các bị cáo khác, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do các bị cáo đã gây ra.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Căn cứ vào hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy các bị cáo tham gia đánh bạc với số tiền không lớn, các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 Điều 51, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết cách ly các bị cáo trên ra khỏi đời sống xã hội, mà cho bị cáo được hưởng án treo là đủ nghiêm.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là lao động tự do không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[4] Về vật chứng vụ án:

- Thu giữ tại chiếu bạc: 03 (ba) bộ bài tây 52 lá (02 bộ đã qua sử dụng, 01 bộ chưa qua sử dụng) là công cụ để đánh bạc nên tịch thu tiêu hủy - Thu giữ tại chiếu bạc số tiền 10.700.000 đồng (Mười triệu bảy trăm nghìn đồng) và thu giữ trên người Nguyễn Trọng X số tiền 700.000 đồng (Bảy trăm ngàn đồng). Quá trình điều tra xác định, số tiền 700.000 đồng (Bảy trăm ngàn đồng) là tiền X dùng vào mục đích đánh bạc nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Thu giữ trên người Trần Văn L số tiền 14.300.000 đồng (Mười bốn triệu ba trăm ngàn đồng) thu giữ trên người Nguyễn Kim T số tiền 11.500.000 đồng (Mười một triệu năm trăm ngàn đồng). Quá trình điều tra xác định, số tiền trên L, T không sử dụng vào mục đích để đánh bạc. Cơ quan CSĐT Công an huyện Xđã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại số tiền cho L và T theo quy định là phù hợp.

- Xe mô tô biển số 60B5 - 341.46 do Nguyễn Trọng X sử dụng và không dùng vào mục đích đánh bạc. Quá trình điều tra xác định xe mô tô trên do bà Hoàng Thị Lệ H đứng tên chủ sở hữu, tuy nhiên bà Huyền đã bán xe trên nay thuộc sở hữu của anh Nguyễn Văn Ô. Cơ quan CSĐT Công an huyện Xđã ra Quyết định xử lý vật chứng trả tài sản trên cho anh Nguyễn Văn Ô theo quy định là phù hợp.

- Xe mô tô 60B6 - 354.09 do Nguyễn Hữu T sử dụng và không dùng vào mục đích đánh bạc. Quá trình điều tra xác định xe mô tô trên do anh Nguyễn Trọng Nghĩa đứng tên chủ sở hữu, anh Nghĩa đã bán xe trên cho anh Nguyễn Công M nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Xđã ra Quyết định xử lý vật chứng trả tài sản trên cho anh Nguyễn Công M theo quy định là phù hợp - Xe mô tô 60B5 - 532.07 do Võ Trung H sử dụng và không dùng vào mục đích đánh bạc. Quá trình điều tra xác định thuộc sở hữu của Võ Trung H. Cơ quan CSĐT Công an huyện Xđã ra Quyết định xử lý vật chứng trả tài sản trên cho Võ Trung H theo quy định là phù hợp [7] Đối với anh Đỗ Nguyễn M C, việc Nguyễn Kim T, Nguyễn Văn S, Nguyễn Trọng X, Trần Văn L, Nguyễn Hữu T và Võ Trung H đánh bài T thua bằng tiền tại nhà của C nhưng anh C không biết và không đứng ra tổ chức hay thu tiền xâu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không đưa ra hình thức xử lý là phù hợp.

[ 8] Xét đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp một phần nên chấp nhận một phần.

[9] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Kim T, Nguyễn Văn S, Nguyễn Trọng X, Trần Văn L, Nguyễn Hữu T và Võ Trung H phạm tội: “Đánh bạc”.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65, Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn L: 08 (Tám) tháng tù. Nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (Một) năm 04 (Bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm - Căn cứ vào khoản 1, Điều 321, Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn S: 08 (Tám) tháng tù. Nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (Một) năm 04 (Bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm - Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Kim T: 06 (Sáu) tháng tù. Nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (Một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm - Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trọng X: 06 (Sáu) tháng tù. Nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (Một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm - Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu T: 06 (Sáu) tháng tù. Nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (Một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm Giao bị cáo Trần Văn L, Nguyễn Văn S, Nguyễn Kim T, Nguyễn Trọng X, Nguyễn Hữu T cho Ủy ban nhân dân xã X, huyện X, tỉnh Đ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui định tại khoản 1 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Võ Trung H: 06 (Sáu) tháng tù. Nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (Một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm Giao bị cáo Võ Trung H cho Ủy ban nhân dân xã X Tâm, huyện X Lộc, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui định tại khoản 1 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 03 (hai) bộ bài tây có 52 lá.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 11.400.000 đồng (Mười một triệu bốn trăm ngàn đồng) tiền bị cáo cùng các đối tượng đưa vào đánh bạc theo biên lai thu tiền số 000764 ngày 28/12/2020 của Chi cục thi hành án huyện X Lộc.

- Căn cứ vào Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Nguyễn Kim T, Nguyễn Văn S, Nguyễn Trọng X, Trần Văn L, Nguyễn Hữu T và Võ Trung H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày niêm yết bản án hoặc nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

317
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 08/2021/HS-ST ngày 18/01/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:08/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;