Bản án 08/2021/HS-ST ngày 18/01/2021 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 08/2021/HS-ST NGÀY 18/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 153/2020/TLST- HS ngày 10 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 162/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/HSST-QĐ ngày 07 tháng 01 năm 2021, đối với các bị cáo:

1/ Đỗ Thị T1, sinh năm 1965; nơi cư trú: tổ 8, phường HBT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Văn N (đã chết) và bà: Nguyễn Thị X, sinh năm 1931; chồng: Ngô Trường S, sinh năm 1962; con: có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1988, con nhỏ nhất sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 15/5/2003, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm về tội “Cưỡng đoạt tài sản”; bị tạm giữ từ ngày 07/9/2020 đến ngày 16/9/2020 chuyển tạm giam cho đến ngày 06/10/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”. Hiện đang được tại ngoại tại địa phương theo Quyết định cho Bảo lĩnh của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (Có mặt tại phiên tòa).

2/ Chu Thị T2, sinh năm 1966; nơi cư trú: tổ 11, phường HBT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Chu Đức C và bà: Nguyễn Thị P (đều đã chết); chồng: Nguyễn Gia H, sinh năm 1963; con: có 02 con, con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 07/9/2020 đến ngày 16/9/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang được tại ngoại tại địa phương theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (Có mặt tại phiên tòa).

3/ Lê Tiến D, sinh năm 1980; nơi cư trú: tổ 2, phường LHP, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Cán bộ ngân hàng; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc:

Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam (đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng theo Quyết định số 03-QĐ/UBKT ngày 18 tháng 9 năm 2020 của Ủy ban kiểm tra Đảng ủy khối doanh nghiệp tỉnh Hà Nam); con ông: Lê Công B, sinh năm 1952 và bà: Lê Thị L, sinh năm 1951; vợ: Trần Thị Hồng V, sinh năm 1982; con: có 02 con đều sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 07/9/2020 đến ngày 16/9/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang được tại ngoại tại địa phương theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (Có mặt tại phiên tòa).

4/ Ngô T.A, sinh năm 1969; nơi cư trú: tổ 7, phường MK, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Ngô Quốc T, sinh năm 1936 và bà: Lê Thị T, sinh năm 1945; vợ: Phạm Thu H, sinh năm 1974; con: có 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 07/9/2020 đến ngày 16/9/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện đang được tại ngoại tại địa phương theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam (Có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Anh Nguyễn Hải N, sinh năm 1973; trú tại: Số nhà 116B-E4, tổ 6, phường QM, quận HBT, thành phố Hà Nội; vắng mặt

2/ Anh Trần Văn , sinh năm 1988; trú tại: Số 12, ngách 53/58, đường QT, tổ dân phố GQ, phường ĐM, quận NTL, thành phố Hà Nội; vắng mặt

3/ Ông Ngô Trường S, sinh năm 1962; trú tại: tổ 8, phường HBT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; có mặt

Người làm chứng: Bà Trần Thị V; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 07/9/2020, Lê Tiến D điều khiển xe ô tô BKS: 30F-094 61 đi đến Công viên Nguyễn Khuyến, thành phố Phủ Lý ngồi uống nước và nhắn tin qua Zalo cho Đỗ Thị T1 với nội dung: “Tầm 1h có ok không chị”, T1 nhắn tin: “Ok” Sau đó, T1 gọi điện thoại cho Chu Thị T2 và nhắn tin Zalo cho Ngô T.A rủ chơi đánh bạc thì T2, T.A đồng ý Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, D, T2, T.A đi đến nhà T1 rồi tất cả đi lên phòng ngủ tầng 3, ngồi trên ghế nhựa xung quanh bàn gỗ ép. T1 lấy bộ bài có sẵn trong phòng để lên bàn cùng mọi người thống nhất chơi đánh bạc dưới hình thức chơi “Phỏm” được thua bằng tiền.

Quá trình đánh bạc các đối tượng thống nhất quy Luật chơi và tỷ lệ được thua như sau: Sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 quận được ký hiệu từ 2,3,4… J, Q, K, A và có các chất lần lượt là rô, cơ, bích, tép. Mỗi người chơi được chia 09 quân bài, ván đầu tiên ai chia bài được đánh trước, các ván tiếp theo ai thắng thì được đánh trước Người đánh đầu tiên được chia 10 quân bài, người đánh sau không ghép được quân bài của người đánh trước làm “Phỏm” thì bốc 01 quân bài rồi đánh tiếp lần lượt đến khi được tính là 04 lần đánh thì hạ bài và cộng điểm của các quân bài lẻ còn lại. Các quân bài A, 2, 3.....J, Q, K lần lượt tương đương với 1, 2, 3, 11, 12, 13 điểm “Phỏm” là bộ 03 hoặc 04 quân bài giống nhau (ví dụ: bộ 03 quân bài A) hoặc dây từ 03 quân bài trở lên cùng chất (ví dụ bộ J, Q, K rô), bài có 09 quân ghép thành các “Phỏm” gọi là “Ù”, người chơi không có “Phỏm” nghĩa là có 09 quân bài không ghép được với nhau sau khi đánh hết lượt gọi là “Móm” Người chơi về nhất được của người về nhì 50 000đ, được của người về ba 100 000đ, được của người về bét 150 000đ, người bị “Móm” là 200 000đ, người được “Ù” thì được của mỗi người chơi 250 000đ Khi người chơi đánh quân bài trước để người ngồi sau ăn quân bài ghép thành “Phỏm” thì phải trả cho người ăn quân bài thứ nhất 50 000đ, bị ăn quân thứ hai 100 000đ, bị ăn quận bài thứ ba thì bị “đền làng” phải trả số tiền 1 000 000đ và những người còn lại không phải trả tiền cho người thắng, bị ăn quân bài thứ 4 gọi là ăn c y “chốt” thì phải trả 200 000đ Khi T1, D, T2, T.A đánh bạc dưới hình thức chơi “Phỏm” được thua bằng tiền đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Đội điều tra tổng hợp Công an thành phố Phủ Lý phát hiện bắt quả tang.

* Vật chứng, tài sản thu giữ gồm:

- Thu giữ: 01 chiếc bàn gỗ ép có bốn chân bằng inox; 04 chiếc ghế nhựa màu đỏ nhãn hiệu Đại Đồng Tiến.

- Thu trên mặt bàn nơi các đối tượng đánh bạc: Số tiền 6 100 000đ; 01 bộ bài tú lơ khơ có 52 quận bài hoa văn trắng - đỏ; 01 bộ bài tú lơ khơ có 52 quận bài hoa văn trắng - xanh.

- Thu giữ của Đỗ Thị T1: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu vàng;

- Thu giữ của Chu Thị T2: Số tiền 29 000 000đ; 01 ví giả da màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 225 màu đen và 01 xe ô tô nhãn hiệu KI FORTE màu đen, BKS:

30X-9856.

- Thu giữ của Lê Tiến D: Số tiền 1 500 000đ; 01 ví giả da màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu vàng; 01 xe ô tô BKS: 30F- 094.61; 01 giấy chứng nhắn đăng ký xe ô tô; 01 giấy chứng nhắn đăng ký kiểm định xe ô tô; 01 bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô.

- Thu giữ của Ngô T.A: Số tiền 1 780 000đ; 01 ví giả da màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu vàng và 01 xe mô tô nhãn hiệu: FOTRE, màu bạc, BKS 90H5-7218.

- Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Đỗ Thị T1 tại tổ 8, phường HBT, thành phố Phủ Lý, thu giữ đồ vật, tài liệu gồm:

- 53 tờ Giấy vay tiền (trong đó có 04 tờ khế ước vay vốn) có chữ ký của ông Ngô Trường Sơn và Đỗ Thị T1;

- 09 quyển sổ, sách ghi thông tin các cá nhân vay tiền;

- 01 bản phô tô giấy chứng nhắn quyền sử dụng đất số AE310371; 01 giấy chứng nhắn quyền sử dụng đất số BY630128.

- 01 giấy chứng nhắn đất số BT958986.

- 01 giấy chứng nhắn quyền sử dụng đất số U083805.

- 01 hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 91, quyển số 01 - 2016 - PCC - SCC/HĐMB - CN;

- 01 bản sao giấy chứng nhắn quyền sử dụng đất số BT958986 của Phan Hữu Phúc và Tạ Thị Thanh.

- 01 tờ khai thuế thu nh p cá nhân của Phan Hữu Phúc.

- 01 tờ khai lệ phí trước bạ nhà đất của Ngô Trường Sơn - 01 giấy bán, cho tặng xe của Tạ Thị Thanh.

- 01 giấy mượn xe của Tạ Thị Thanh viết ngày 23/02/2019.

- 01 giấy mượn xe và giấy tờ xe ô tô BKS: 90A-07786 của Tạ Thị Thanh viết ngày 25/11/2019.

- 01 bản sao CMND số 168488704 của Tạ Thị Thanh.

- 01 bản sao giấy CMND của Tạ Thị Hương, sinh năm:1987, trú tại: Nam Trực, Nam Định.

- 01 bản phô tô giấy chứng nhắn đăng ký xe mô tô, xe máy số: 069525 mang tên Tạ Thị Thanh.

- 01 giấy chứng nhắn đăng ký xe ô tô số: 017288 mang tên Tạ Thị Thanh.

- 01 bản phô tô giấy chứng nhắn đăng ký mô tô, xe máy số: 013411 mang tên Phùng Đức Hải.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 95/2020 ngày 23/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý kết luận: Trị giá chiếc xe máy nhãn hiệu FOTRE, màu bạc, BKS: 90H5-7218 đã qua sử dụng còn 4 000 000đ Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định số tiền thu giữ trên chiếu 6 100 000đ; số tiền 29.000.000đ thu giữ của Chu Thị T2; số tiền 1 500 000đ thu giữ của Lê Tiến D; số tiền 1 780 000đ thu giữ của Ngô T.A là tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc. Như vậy, tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 38 380 000đ Từ những nội dung trên, bản cáo trạng số: 151/CT-VKS-PL ngày 08 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố các bị cáo Đỗ Thị T1, Chu Thị T2, Lê Tiến D, Ngô T.A về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ Luật Hình sự.

* Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Đỗ Thị T1, Chu Thị T2, Lê Tiến D, Ngô T.A phạm tội “Đánh bạc” Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321 (đối với các bị cáo); điểm i, s khoản 1 Điều 51 (đối với T2, D, T.A); điểm s khoản 1 Điều 51 (đối với T1); điểm v khoản 1 Điều 51 (đối với D); khoản 2 Điều 51 (đối với T1, D, T.A); Điều 17;

Điều 50; Điều 58 (đối với tất cả các bị cáo); Điều 65 (đối với T1, T2, T.A); Điều 35 (đối với D) của Bộ Luật Hình sự năm 2015 Đề nghị xử phạt:

Bị cáo Đỗ Thị T1 từ 15 đến 18 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng.

Bị cáo Chu Thị T2 từ 12 đến 15 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng.

Bị cáo Ngô T.A từ 12 đến 15 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng.

Bị cáo Lê Tiến D từ 30 000 000 đồng đến 50.000.000 đồng sung Ngân sách Nhà nước.

+ Về hình phạt bổ sung: Đề nghị áp dụng khoản 3 Điều 321, Điều 35 của Bộ Luật Hình sự (đối với T1, T2, T.A), phạt các bị cáo mỗi bị cáo từ 5 000 000 đồng đến 10 000 000 đồng sung Ngân sách Nhà nước.

+ Về xử lý vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ Luật Hình sự; Điều 106 của Bộ Luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu và tiêu hủy: 02 (hai) bộ tú lơ khơ, mỗi bộ có 52 quân bài; 01 (một) chiếc bàn gỗ ép kích thước (120x80)cm, có chân bằng inox; 04 (bốn) ghế nhựa màu đỏ thẫm.

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: số tiền 38.380.000đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu vàng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 225 màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu vàng.

- Trả lại Lê Tiến D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu vàng.

- Trả lại Ngô T.A 01 xe mô tô nhãn hiệu: FOTRE, màu bạc, BKS 90H5- 7218.

- Các bị cáo đã khai nhắn toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố và nhất trí với bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã công bố tại phiên tòa. Các bị cáo không tranh luận bào chữa gì. Lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Ngô Trường S có ý kiến: Sau khi vụ việc đánh bạc bị bắt quả tang, Cơ quan cảnh sát điều tra đã khám xét và thu giữ tại nhà ông các tài liệu, sổ sách, giấy tờ liên quan đến việc vay nợ, nay Cơ quan điều tra đã trả lại ông toàn bộ các tài liệu, sổ sách, giấy tờ đã bị thu giữ, nên ông không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhắn định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Nguyễn Hải N, Trần Văn và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa, nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp Luật.

[3] Đánh giá về tội danh: Đối chiếu lời khai nhắn tội của các bị cáo tại phiên tòa với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra. Hội đồng xét xử thấy cơ bản phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang về thời gian, địa điểm, diễn biến vụ án, vật chứng thu giữ cũng như các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được cơ quan điều tra thu thập.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 07/9/2020, tại nhà Đỗ Thị T1 ở tổ 8, phường HBT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam Đỗ Thị T1, Chu Thị T2, Lê Tiến D và Ngô T.A đang đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức chơi “Phỏm” với tổng số tiền sử dụng đánh bạc là 38 380 000đ thì bị lực lượng Công an thành phố Phủ Lý phát hiện bắt quả tang Hành vi của các bị cáo Đỗ Thị T1, Chu Thị T2, Lê Tiến D và Ngô T.A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ Luật Hình sự. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với các bị cáo như bản cáo trạng đã nêu là có căn cứ, phù hợp pháp Luật.

[4] Đánh giá về hình phạt:

- Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng trên địa bàn thành phố Phủ Lý, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội. Hành vi này nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ kéo theo nhiều hệ lụy cho gia đình và xã hội. Xét thấy, hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh bằng một hình phạt nhất định, tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo, mới có tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Tuy nhiên, cũng cần phải đánh giá số tiền, mức độ tham gia của từng bị cáo trong vụ án, để quyết định hình phạt cho phù hợp, khách quan, phản ánh đúng tính chất, mức độ của hành vi phạm tội.

Xem xét vai trò của từng bị cáo trong vụ án thì thấy: Đỗ Thị T1 là người rủ Chu Thị T2, Ngô T.A đánh bạc, sử dụng nhà ở của mình làm địa điểm đánh bạc và trực tiếp tham gia đánh bạc nên giữ vai trò thứ nhất trong vụ án. Chu Thị T2, Ngô T.A, Lê Tiến D trực tiếp tham gia đánh bạc nên giữ vai trò đồng phạm trong vụ án. Chu Thị T2 sử dụng số tiền 30 000 000 đồng tham gia đánh bạc, Ngô T.A sử dụng số tiền 3 880 000 đồng tham gia đánh bạc, Lê Tiến D sử dụng số tiền 2 500 000 đồng tham gia đánh bạc, nên Chu Thị T2 giữ vai trò thứ hai trong vụ án, Lê Tiến D giữ vai trò thứ yếu trong vụ án.

Khi lượng hình cũng cần cân nhắc đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân đối với các bị cáo để áp dụng hình phạt.

Về nhân thân: Các bị cáo Chu Thị T2, Lê Tiến D, Ngô T.A là những người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Bị cáo Đỗ Thị T1 đã từng bị kết án bằng một bản án về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, đến nay đã được xóa án tích, song không lấy đó làm bài học để rèn luyện chính mình mà vẫn tiếp tục có hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc trong khi lượng hình.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo Đỗ Thị T1, Chu Thị T2, Lê Tiến D, Ngô T.A đã thành khẩn khai nhắn hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự. Các bị cáo Chu Thị T2, Lê Tiến D, Ngô T.A phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên các bị cáo T2, D, T.A được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo Đỗ Thị T1 có bố đẻ tham gia kháng chiến được tặng danh hiệu dũng sĩ bán máy bay và là bệnh binh. Bị cáo Ngô T.A có bố mẹ đẻ tham gia kháng chiến được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất. Bị cáo Lê Tiến D trong quá trình công tác được tặng thưởng nhiều giấy khen và có bố đẻ được tặng thưởng Bằng khen của Bộ giáo dục và đào tạo, nên các bị cáo T1, T.A, D được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự. Bị cáo Lê Tiến D trong quá trình công tác nhiều năm được tặng danh hiệu chiến sỹ thi đua cơ sở, nên bị cáo D còn được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Qua xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy: Các bị cáo Đỗ Thị T1, Chu Thị T2, Ngô T.A có nơi cư trú, có lý lịch rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Vì vậy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội, mà cho các bị cáo cải tạo tại địa phương theo quy định tại Điều 65 của Bộ Luật Hình sự cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội mà vẫn đáp ứng được yêu cầu phòng, chống tội phạm trong cộng đồng. Bị cáo Lê Tiến D có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tham gia với vai trò thứ yếu, nên cần áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với bị cáo D theo quy định tại Điều 35 của Bộ Luật Hình sự cũng đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

- Về hình phạt bổ sung: Xét mục đích phạm tội của các bị cáo là đánh bạc để trục lợi bất chính về kinh tế nên cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Đỗ Thị T1, Chu Thị T2, Ngô T.A. Bị cáo Lê Tiến D áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo D.

[5] Về tình tiết khác: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý tạm giữ nhiều giấy tờ, tài liệu có liên quan đến việc ông Ngô Trường S và bị cáo Đỗ Thị T1 cho các cá nhân, tổ chức vay tiền. Tuy nhiên, qua xác định lãi suất mà ông Ngô Trường S và bị cáo Đỗ Thị T1 cho các cá nhân, tổ chức vay tiền chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” quy định tại Điều 201 của Bộ Luật Hình sự nên Hội đồng xét xử không xem xét đến hành vi này của ông Ngô Trường S và Đỗ Thị T1.

[6] Về vật chứng:

- Đối với 01 ví giả da màu đen và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu vàng là tài sản hợp pháp của Chu Thị T2 không liên quan đến vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã trả lại cho bị cáo T2 là phù hợp pháp Luật.

- Đối với 01 chiếc xe ô tô nhãn kiệu KI FORTE màu đen, BKS: 30X- 9856 thu giữ của Chu Thị T2 là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Hải N, anh N cho bị cáo T2 mượn làm phương tiện đi lại. Đối với 01 ví giả da màu đen là tài sản hợp pháp của bị cáo Lê Tiến D không liên quan đến vụ án. Đối với 01 xe ô tô nhãn hiệu HUYNDAI TUCSON, màu trắng, BKS: 30F-094.61; 01 giấy chứng nhắn kiểm định an toàn kỹ thu t và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; 01 Giấy chứng nhắn bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô; 01 giấy chứng nhắn đăng ký xe ô tô là tài sản hợp pháp của anh Trần Văn . Anh Trần Văn cho bị cáo Lê Tiến D mượn làm phương tiện đi lại. Đối với 01 ví giả da màu đen là tài sản hợp pháp của bị cáo Ngô T.A, không liên quan đến vụ án Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã ra Quyết định trả lại các tài sản, giấy tờ trên cho anh Nguyễn Hải N, Lê Tiến D, Trần Văn , Ngô T.A là phù hợp với các quy định của pháp Luật - Đối với 49 tờ giấy vay tiền có chữ ký của ông Ngô Trường S và bị cáo Đỗ Thị T1; 09 quyển sổ, sách ghi thông tin các cá nhắn vay tiền; 01 bản phô tô giấy chứng nhắn quyền sử dụng đất số E310371; 01 giấy chứng nhắn quyền sử dụng đất số BY630128; 01 giấy chứng nhắn đất số BT958986; 01 giấy chứng nhắn quyền sử dụng đất số U083805; 01 hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 91, quyển số 01-2016-PCC-SCC/HĐMB-CN;

01 bản sao giấy chứng nhắn quyền sử dụng đất số BT958986 của Phan Hữu Phúc và Tạ Thị Thanh; 01 tờ khai thuế thu nh p cá nhắn của Phan Hữu Phúc; 01 tờ khai lệ phí trước bạ nhà đất của Ngô Trường Sơn; 01 giấy bán, cho tặng xe của Tạ Thị Thanh; 01 giấy mượn xe của Tạ Thị Thanh viết ngày 23/02/2019; 01 giấy mượn xe và giấy tờ xe ô tô BKS: 90 -07786 của Tạ Thị Thanh viết ngày 25/11/2019; 01 bản sao CMND số 168488704 của Tạ Thị Thanh; 01 bản sao giấy CMND của Tạ Thị Hương, sinh năm1987 tại huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định;

01 bản phô tô giấy chứng nhắn đăng ký xe mô tô, xe máy số 069525 mang tên Tạ Thị Thanh; 01 chứng nhắn đăng ký xe ô tô số 017288 mang tên Tạ Thị Thanh; 01 bản phô tô giấy chứng nhắn đăng ký mô tô, xe máy số: 013411 mang tên Phùng Đức Hải là các giấy tờ, tài liệu của bị cáo Đỗ Thị T1 và Ngô Trường Sơn cho các cá nhắn vay tiền để hưởng lãi suất, không liên quan đến vụ án Đối với 01 tờ khế ước vay vốn ngày 17/4/2019, 01 khế ước vay vốn ngày 24/4/2019, 01 khế ước vay vốn ngày 19/9/2019, 01 khế ước vay vốn ngày 14/8/2020 đều giữa bên vay là Công ty cổ phần đầu tư và x y dựng 515 9 với bên cho vay là ông Ngô Trường S là tài liệu của ông Ngô Trường S, không liên quan đến vụ án Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã trả toàn bộ giấy tờ trên cho bị cáo Đỗ Thị T1 và ông Ngô Trường S là phù hợp pháp Luật.

- Đối với 01 chiếc bàn gỗ ép có bốn chân bằng inox; 04 chiếc ghế nhựa màu đỏ nhãn hiệu Đại Đồng Tiến đến nay không còn giá trị sử dụng; 01 bộ bài tú lơ khơ có 52 quận bài hoa văn trắng - đỏ; 01 bộ bài tú lơ khơ có 52 quận bài hoa văn trắng - xanh là công cụ các bị cáo sử dụng để đánh bạc cần tịch thu, tiêu hủy - Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu vàng thu giữ của Đỗ Thị T1, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKI 225 màu đen thu giữ của Chu Thị T2, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng thu giữ của Ngô T.A, các bị cáo sử dụng làm phương tiện liên lạc để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước - Đối với số tiền 38 380 000đ thu giữ của các bị cáo đều sử dụng vào mục đích đánh bạc, cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu vàng là tài sản hợp pháp của bị cáo Lê Tiến D, không liên quan đến vụ án Đối với 01 xe mô tô BKS: 90H5-7218 là tài sản của bị cáo Ngô T.A không sử dụng vào mục đích phạm tội đánh bạc nên cần trả lại cho Lê Tiến D và Ngô T.A.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp Luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 58; Điều 50; Điều 47 (đối với tất cả các bị cáo); điểm i, s khoản 1 Điều 51 (đối với T2, D, T.A); điểm s khoản 1 Điều 51 (đối với T1); khoản 2 Điều 51 (đối với T1, D, T.A); điểm v khoản 1 Điều 51; Điều 35 (đối với D); khoản 3 Điều 321; Điều 35; Điều 65 (đối với T1, T2, T.A) của Bộ Luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106; 136; 331; 333 của Bộ Luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[2] Tuyên bố: Các bị cáo Đỗ Thị T1, Chu Thị T2, Lê Tiến D, Ngô T.A phạm tội “Đánh bạc”

[3] Xử phạt:

- Bị cáo Đỗ Thị T1 15 (mười lăm) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Bị cáo Chu Thị T2 13 (mười ba) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 26 (hai mươi sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Bị cáo Ngô T.A 12 (mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Bị cáo Lê Tiến D 50 000 000đ (năm mươi triệu đồng) sung Ngân sách Nhà nước.

Giao các bị cáo Đỗ Thị T1, Chu Thị T2 cho Ủy ban nhân dân phường HBT, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Ngô T.A cho Ủy ban nhắn dân phường MK, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Phạt các bị cáo Đỗ Thị T1, Chu Thị T2, Ngô T.A mỗi bị cáo 5 000 000đ (năm triệu đồng) sung Ngân sách Nhà nước.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu và tiêu hủy: 01 chiếc bàn gỗ ép có chân bằng inox; 04 chiếc ghế nhựa màu đỏ thẫm, loại ghế tựa lưng có team “Đại Đồng Tiến”; 01 bộ bài tú lơ khơ có 52 quận bài hoa văn trắng - đỏ; 01 bộ bài tú lơ khơ có 52 quận bài hoa văn trắng - xanh.

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu vàng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 225 màu đen, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng và số tiền 38.380 000đ (ba mươi tám triệu, ba trăm tám mươi nghìn đồng).

- Trả lại: Bị cáo Lê Tiến D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu vàng; Ngô T.A 01 chiếc xe máy nhãn hiệu FOTRE, màu sơn bạc, BKS: 90H5-7218.

(Các vật chứng nêu trên có tình trạng, đặc điểm như biên bản giao nhắn vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 14/12/2020 và Ủy nhiệm chi số 70 lập ngày 17/12/2020).

[6] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo Đỗ Thị T1, Chu Thị T2, Lê Tiến D, Ngô T.A mỗi bị cáo phải nộp 200 000đ (hai trăm nghìn đồng).

[7] Về quyền kháng cáo đối với bản án: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhắn được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 08/2021/HS-ST ngày 18/01/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:08/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;