TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 08/2021/HS-PT NGÀY 25/05/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong ngày 25 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 13/2021/TLPT-HS ngày 23 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo Triệu Văn C do có kháng cáo của bị cáo Triệu Văn C và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 12/2021/HS-ST ngày 22/03/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
* Bị cáo có kháng cáo và bị kháng nghị: Triệu Văn C; tên gọi khác: Không có; sinh ngày 02 tháng 3 năm 1994 tại huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn; HKTT và chỗ ở: Thôn P, xã T, huyện B, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Triệu Kim P và bà Phùng Thị S; vợ, con: Chưa có; tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại không kháng cáo: Anh Hà Văn K ; sinh năm 1986; trú tại:
Thôn L, xã T, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không kháng cáo: Anh Đặng Văn L; sinh năm 1979; trú tại: Thôn N, xã Y, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 01/9/2019 Triệu Văn C cùng với Bàn Văn Đ, Đặng Văn M, Triệu Văn T (tên gọi khác M) đi hát Karaoke tại quán D thuộc thị trấn C, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Đến 21 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô chở C , còn Đ tự đi một xe, cùng đi về xã Bành Trạch, huyện Ba Bể chơi. Khi đi đến thôn Bản Hon, xã Bành Trạch, thì Đ nhìn thấy Dương Nông P đứng cạnh đường, Đ dừng xe nói chuyện với P, hai bên xảy ra cãi nhau. Thấy P và Đ cãi nhau C và T (Mão) dừng lại nói chuyện với P và xin cho Đ ra về. Khoảng 05 P t sau Hà Văn K đi đến sự việc cãi nhau kết thúc. Đ, C, T (Mão) ra về, còn K và P vẫn đứng bên đường nói chuyện. Đi được một đoạn thì Đ quay xe lại đi về phía thị trấn Chợ Rã, đợi lâu không thấy Đ quay lại nên C và T (Mão) quay lại tìm. Khi đi qua chỗ K và P đang đứng thì K dùng gậy vụt vào chân của C nhưng T không dừng xe mà vẫn đi tiếp. Đến khi gặp Đ, T có kể cho Đ nghe về chuyện C bị K đánh vào chân. Đ bỏ đi mua thuốc lá và gọi điện thoại cho Đặng Văn M đến. Khoảng 05 Phút sau, M đến C kể cho M việc bị K đánh và rủ M lát nữa quay về sẽ chặn đường đánh K thì được M đồng ý. Do C biết nhà K nên cả C và M cùng di chuyển đến đường rẽ vào trường học thuộc thôn Lủng Điếc để đón đường K. Thấy K đi qua C dùng 01 tuýp sắt đã chuẩn bị trước đuổi theo vụt vào người K làm K bị đổ xe ngã ra đường. C tiếp tục lao vào đánh K thì K rút gậy buộc ở sau xe ra chống trả. Thấy vậy, M cũng cầm tuýp sắt lao vào đánh K, K bỏ chạy. C và M tiếp tục đuổi theo đến quán của anh Hiếu thấy có người trong quán đi ra nên C và M không đánh nữa mà quay về tìm T (Mão) đi uống rượu tiếp.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 157/TGT ngày 04/11/2019 của Trung tâm giám định pháp y Sở y tế tỉnh Bắc Kạn kết luận: Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của Hà Văn K là 11%.
Quá trình điều tra, do Đặng Văn M đã bỏ trốn khỏi địa phương nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã và ra quyết định tách vụ án để xử lý sau khi bắt được M.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 12/2021/HSST ngày 22/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đã quyết định tuyên bố bị cáo Triệu Văn C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS năm 2015. Xử phạt bị cáo Triệu Văn C 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Về vật chứng:
- Tịch thu hóa giá sung vào Ngân sách Nhà nước 01 xe máy BKS 97B1-46376.
- Chuyển cho cơ quan điều tra Công an huyện Ba Bể vật chứng là 01 đoạn gậy sắt dài 65cm, có tay cầm được cuốn bằng băng dính đen, dài 23cm, đường kính 02cm, đoạn sắt giữa dài 20cm có màu trắng, đoạn sắt trên cùng dài 22cm là hung khí gây thương tích thu giữ của Đặng Văn M để giải quyết, xử lý theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 30/3/2021 bị cáo Triệu Văn C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 23/4/2021 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn có quyết định kháng nghị số 01/QĐ-VKSTBK đề nghị sửa bản án sơ thẩm về phần xử lý vật chứng theo hướng trả lại chiếc xe mô tô BKS 97B1-46376 cho bị cáo Triệu Văn C .
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định kháng nghị đề nghị HĐXX chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát tuyên trả lại chiếc xe mô tô BKS 97B1-46376 cho bị cáo Triệu Văn C. Đối với kháng cáo của bị cáo Triệu Văn C cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, mức hình phạt 30 (ba mươi) tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Ý kiến của bị cáo tại phiên tòa: Bị cáo biết hành vi của mình là sai mong HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn là đúng trình tự, thủ tục, đúng thời hạn quy định nên được xem xét theo trình tự Phúc thẩm.
[2]. Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội do bực tức vì bị Hà Văn K dùng gậy vụt vào chân nên bị cáo đã rủ Đặng Văn M cùng đón đường chờ K đi qua thì dùng tuýp sắt đã chuẩn bị từ trước để đánh K gây thương tích với tổng tỷ lệ thương tật là 11% (mười một phần trăm). Căn cứ vào lời khai của bị cáo và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở khẳng định Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Triệu Văn C về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 do bị cáo dùng tuýp sắt là hung khí nguy hiểm là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Về đơn kháng cáo của bị cáo thấy: Bị cáo bị truy tố, xét xử theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 02 năm đến 06 năm tù. Tại cấp sơ thẩm bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và xác định trong vụ án người bị hại cũng có lỗi nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51/BLHS. Như vậy, cấp sơ thẩm đã xem xét nhân thân và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo mức hình phạt 30 (ba mươi) tháng tù là Tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết nào mới, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn: Đối với chiếc xe mô tô BKS 97B1-46376 không phải là công cụ, phương tiện các bị cáo chuẩn bị từ trước để phục vụ cho việc phạm tội. Chỉ khi đi chơi về xảy ra mâu thuẫn các bị cáo mới nảy sinh ý định chặn đường đánh và gây thương tích cho người bị hại Hà Văn K. Do đó, HĐXX xác định xe mô tô không có mối liên hệ mật thiết với hành vi phạm tội của các bị cáo mà chỉ là phương tiện di chuyển, không trực tiếp tác động đến thương tật của người bị hại nên việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định chiếc xe trên là phương tiện phạm tội và tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước là không đúng quy định và gây bất lợi cho bị cáo. Do đó, kháng nghị của Viện kiểm sát tỉnh Bắc Kạn là có căn cứ cần được chấp nhận.
[4]. Về án phí: Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận bị cáo phải chịu án phí HSPT theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 355; Điều 356, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn. Giữ nguyên quyết định của bản án số 14/2020/HSST ngày 18/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn về phần hình phạt, sửa bản án về phần xử lý vật chứng.
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS năm 2015. Xử phạt bị cáo Triệu Văn C 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Trả lại cho bị cáo Triệu Văn C 01 xe máy BKS 97B1- 46376.
- Chuyển cho cơ quan điều tra Công an huyện Ba Bể vật chứng là 01 đoạn gậy sắt dài 65cm, có tay cầm được cuốn bằng băng dính đen, dài 23cm, đường kính 02cm, đoạn sắt giữa dài 20cm có màu trắng, đoạn sắt trên cùng dài 22cm là hung khí gây thương tích thu giữ của Đặng Văn M để giải quyết, xử lý theo quy định của pháp luật.
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận ngày 08/02/2021 giữa Công an huyện Ba Bể và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Bể)
3. Án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/UBTVQH14 bị cáo Triệu Văn C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 08/2021/HS-PT ngày 25/05/2021 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 08/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về