Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHỤNG HIỆP-TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 546/2020/TLST-HNGĐ, ngày 11 tháng 11 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 202/2020/QĐXXST-HN, ngày 18 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên toà số 01/2020/QĐST-HN, ngày 04 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Phạm Thị Thu H, sinh năm 1967.

Địa chỉ: ấp T, thị trấn T, huyện H, tỉnh Hậu Giang.

2. Bị đơn: Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1973.

Địa chỉ: ấp T, thị trấn T, huyện H, tỉnh Hậu Giang. Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết, nguyên đơn Phạm Thị Thu H (sau đây gọi bà H) trình bày: giữa bà và bị đơn Nguyễn Hoàng A (sau đây gọi ông Hoàng A) qua tìm hiểu nhau, tự nguyện quyết định đi đến hôn nhân vào năm 1995, có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do chồng bà không lo làm ăn để lo cho gia đình, làm có tiền chỉ chi xài cá nhân, vì thương các con nên bà cố gắng nhẫn nhịn, chịu đựng, ra sức khuyên ngăn nhưng chồng bà không thay đổi, từ đó thường cãi vã nhau trong cuộc sống, đã nhiều lần hoà giải hàn gắn tình cảm nhưng không thành nên đã sống ly thân từ tháng 09 năm 2020. Do cuộc sống chung không hạnh phúc, bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

-Về hôn nhân: xin ly hôn với ông Hoàng A.

-Về con chung: có hai người con chung nhưng một người đã trưởng thành, người còn lại tên Nguyễn Thị Kim A (nữ), sinh ngày 24 tháng 5 năm 2004. Từ khi ly thân đến nay, con sống với bà H, nay ly hôn, bà yêu cầu được nuôi con, chưa yêu cầu ông Hoàng A cấp dưỡng.

-Về nợ và tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Nguyễn Hoàng A vắng mặt nên không có lời trình bày.

Tại bản tự khai ngày 18 tháng 11 năm 2020, cháu Nguyễn Thị Kim A trình bày (có sự chứng kiến của bà H): từ trước đến nay cháu sống với mẹ. Khi cha, mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng được sống với mẹ.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: về thủ tục tố tụng: Tòa án, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn; giao con chung cho nguyên đơn nuôi dưỡng; bị đơn chưa phải cấp dưỡng; về nợ và tài sản chung, không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp ly hôn được qui định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

[2] Về thủ tục tố tụng: Ông Nguyễn Hoàng A được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, vắng không lý do; căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử mở phiên tòa xét xử vắng mặt đối với Ông Hoàng A.

[3] Xét về quan hệ hôn nhân: bà H và ông Hoàng A qua tìm hiểu nhau, tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn ngày 19 tháng 12 năm 2002 tại Ủy ban nhân xã Tân Phước Hưng, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, nên hôn nhân của ông bà là hợp pháp và được pháp luật thừa nhận.

[4] Xét yêu cầu xin ly hôn của bà H: bà và ông Hoàng A trong thời gian chung sống có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo bà Hà trình bày do ông Hoàng A không quan tâm, lo lắng đến gia đình là đã vi phạm nghĩa vụ vợ chồng, mặt khác, vợ chồng bất đồng quan điểm sống nhưng không có giải pháp khắc phục để hoà giải, hàn gắn tình cảm mà đã sống ly thân; xét thấy thời gian ly thân đã lâu thì tự ai người đó sống, không ai quan tâm, lo lắng cho ai. Trong quá trình giải quyết, Tòa án tạo điều kiện để hòa giải đoàn tụ nhưng ông Hoàng A không có mặt, chứng tỏ rằng ông không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân này. Trong khi tại phiên tòa, bà H xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông Hoàng A và cương quyết xin ly hôn; từ đó thấy rằng hôn nhân giữa hai người đã thật sự lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được; căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H.

[5] Về con chung: có hai người con chung nhưng có một người đã đủ tuổi trưởng thành, người còn lại là cháu Kim A, xét từ khi ly thân đến nay thì cháu sống với bà H, bà H có yêu cầu được nuôi con, yêu cầu này phù hợp với nguyện vọng cháu Kim A, cần tiếp tục giao cháu cho bà H nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc khi bà H, ông Hoàng A có yêu cầu khác.

[6] Về nghĩa vụ cấp dưỡng: bà H chưa yêu cầu cấp dưỡng nên không đặt ra xem xét. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho ông Hoàng A mà không ai có quyền cản trở.

[7] Về tài sản và nợ chung: bà H xác định không nợ và không có tài sản gì, nên không yêu cầu giải quyết.

[8] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: nguyên đơn phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: cho ly hôn giữa bà Phạm Thị Thu H và ông Nguyễn Hoàng A.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung là Nguyễn Thị Kim A (nữ), sinh ngày 24 tháng 5 năm 2004 cho bà Phạm Thị Thu H được tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc khi bà H, ông Hoàng A có yêu cầu khác.

Ông Nguyễn Hoàng A chưa phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho ông Nguyễn Hoàng A mà không ai có quyền cản trở.

3. Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu, không xem xét.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: bà Phạm Thị Thu H phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ từ 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0007066, ngày 11 tháng 11 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang thành án phí, không phải nộp thêm.

Trường hợp quyết định này được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phụng Hiệp - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;