TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 16 tháng 3 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 199/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 04 tháng 02 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2021/QĐST-HNGĐ ngày 25/02/2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Trần Thị Kim Ng, sinh năm: 1970; địa chỉ: Khu phố 2, phường Đ L, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị, có mặt.
Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng M, sinh năm: 1965; địa chỉ: Khu phố 2, phường Đ L, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 22 tháng 9 năm 2020, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Trần Thị Kim Ngân trình bày:
Về hôn nhân: Chị Trần Thị Kim Ng và anh Nguyễn Hoàng M kết hôn ngày 26/4/2010 trên cơ sở tự nguyện của đôi bên, đăng ký kết hôn tại UBND phường Đ L, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị.
Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn từ nhiều năm nay căng thẳng nhất là từ đầu năm 2020, mặc dù sống chung dưới một mái nhà nhưng không có hạnh phúc. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách không hòa hợp, anh M nóng tính, có lúc đánh đập, xúc phạm chị Ng. Chị Ng xác định tình cảm vợ chồng không còn, khả năng để hàn gắn, hòa hợp là không thể đạt được, vì vậy chị Ng yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng M.
Về con chung: Có 03 con chung là các cháu: Nguyễn Thị M, sinh năm 1992; Nguyễn Minh M, sinh năm 1995; Nguyễn Thị Ngọc M, sinh ngày 09/12/2004. Nguyện vọng chị Ngân hai con Nguyễn Thị M, Nguyễn Minh M đã trưởng thành nên việc ở với ai các con tự quyết định chị Ngân không yêu cầu giải quyết, chị Ngân có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Ngọc M, không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Hoàng M đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng không có văn bản trình bày ý kiến và vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.
Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
Về việc chấp hành pháp luật của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa những người tiến hành tố tụng và nguyên đơn tuân thủ đúng quy định của BLTTDS. Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn vi phạm các Điều 70 Bộ Luật tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 51, 56, 81, 83, 83 Luật Hôn nhân và gia đình:
Về tình cảm: Xử cho chị Trần Thị Kim Ng được ly hôn anh Nguyễn Hoàng M Về con chung: Xử giao cho chị Ng được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Ngọc M, sinh ngày 09/12/2004, anh M không phải cấp dưỡng nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Hoàng M đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Hoàng M.
[2] Về nội dung:
Về tình cảm: Theo lời trình bày của chị Ngân thì quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, không thể hòa thuận và sống hạnh phúc. Theo kết quả xác minh tại địa phương, trong thời gian chung sống vợ chồng chị Ng, anh M có xãy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính cách không hòa hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên hay cãi nhau.
Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, tuy nhiên anh M không có ý kiến phản hồi, không đến Tòa án làm việc cũng như không có giải pháp và hành động thể hiện thiện chí mong muốn vợ chồng đoàn tụ điều đó thể hiện ý thức anh M đã bỏ mặc cuộc hôn nhân của mình.
Thấy rằng vợ chồng chị Ng, anh M không còn yêu thương chăm sóc lẫn nhau, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu của chị Ng cần áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Ng được ly hôn anh M.
Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là các cháu: Nguyễn Thị M, sinh năm 1992; Nguyễn Minh M, sinh năm 1995; Nguyễn Thị Ngọc M, sinh ngày 09/12/2004. Nguyện vọng chị Ng xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Ngọc M, không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con, còn các cháu Minh và M đã trưởng thành để hai cháu tự quyết định.
Xét thấy quá trình giải quyết vụ án, anh M không có ý kiến gì đối với việc nuôi dưỡng con chung, thể hiện bỏ mặc, không quan tâm. Hiện tại cháu M đang sống cùng mẹ và có nguyện vọng được ở với mẹ, do đó cần xem xét giao cháu Mai cho chị Ngân chăm sóc, nuôi dưỡng là hợp lý, hai cháu M và M đã trưởng thành nên không xem xét, chị Ng không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về án phí: Chị Ng chịu toàn bộ án phí hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; khoản 1, khoản 3 Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ Luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí:
- Về hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị Kim Ng được ly hôn anh Nguyễn Hoàng Minh - Về con chung: Xử giao cháu: Nguyễn Thị Ngọc M, sinh ngày 09/12/2004 cho chị Trần Thị Kim Ng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị Ng không yêu cầu anh Minh cấp dưỡng nuôi con.
Anh Nguyễn Hoàng M vẫn có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được cản trở anh M thực hiện quyền này.
- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Về án phí: Chị Trần Thị Kim Ng phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000781 ngày 15/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Chị Ng đã nộp đủ án phí.
3. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 16/03/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 08/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/03/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về