TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ TH, ANH H
Ngày 15 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số 66/2020/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2020 về “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 06/2020/QĐST- HNGĐ ngày 4 tháng 12 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 03/2020/QĐST-HNGĐ ngày 21/12/2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Chu Th Th, sinh năm 1983. (có mặt) STQ: Thôn Cầu Nhạc, xã Phong Vân, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. HKTT: Thôn Hiền Lương, xã Phù Lương, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Bị đơn: Anh Phạm Văn H, sinh năm 1983. (vắng mặt) STQ: Thôn Hiền Lương, xã Phù Lương, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và lời khai của phía chị Th có trong hồ sơ, lời khai của chị Th tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chị Chu Th Th kết hôn với anh Phạm Văn H vào tháng 3/2002, kết hôn do hai bên tự nguyện và có đăng ký tại UBND xã Phù Lương, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Sau khi làm lễ cưới vợ chồng chung sống cùng với bố mẹ anh H được khoảng 1-2 tháng thì chuyển lên Lục Ngạn làm ăn sinh sống. Vợ chồng cũng chỉ ở Lục Ngạn được khoảng 03 năm thì lại vào Miền Mam làm ăn sinh sống trong đó. Đầu năm 2010 vợ chồng không ở Miền Nam nữa mà về quê Phù Lương sinh sống. Đến tháng 6/2010 vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, chị Th về quê Lục Ngạn sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó đến nay.
Theo phía chị Th trình bày: Sau khi vào Bình Dương làm ăn được thời gian ngắn thì vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn mà nguyên nhân là do cuộc sống cũng khó khăn nên đã làm cho đời sống vợ chồng hay có điều tiếng, vợ chồng chung sống không được hạnh phúc. Theo chị thì anh H sống không chung thủy, anh H cặp kè hết người phụ nữ này đến người phụ nữ khác, anh H còn chơi bời bạn bè không quan tâm đến vợ con làm cho cuộc sống gia đình, vợ chồng luôn căng thẳng, đời sống vợ chồng không có hạnh phúc.
Sau mấy năm ở Miền nam cuộc sống vợ chồng vẫn như vậy nên vợ chồng đã về quê anh H để sinh sống. Vợ chồng về quê nhưng vẫn suốt ngày mâu thuẫn, cãi cọ nhau nên đến chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 6/2010, kể từ đó đến nay vợ chồng ly thân không ai quan tâm đến ai. Nay chị thấy vợ chồng ly thân thời gian cũng đã lâu nhưng cũng không cải thiện được tình cảm gì, vợ chồng đã không còn tình cảm với nhau nữa nên chị đề nghị Tòa án giải quyết để chị được ly hôn anh H.
Về con chung: Chị Th trình bày vợ chồng có 02 con chung là cháu Phạm Th Thắm, sinh ngày 7/3/2003 và cháu Phạm Văn Hùng, sinh ngày 27/01/2009. Hiện nay hai cháu đang ở với bố và ông bà nội, tuy nhiên chủ yếu các cháu ở với ông bà nội vì anh H cũng đi làm suốt không mấy khi ở nhà. Cháu Thắm thì đã lấy chồng và có con nhưng vợ chồng cháu vẫn ở chung nhà với bố, chung nhà với ông bà nội, cháu Hùng hiện đang đi học cấp 2 tại trường xã. Ly hôn chị có nguyện vọng để các cháu ở với bố cho gần ông bà nội vì ông bà cũng chỉ có anh H là con trai nên ông bà cũng có nguyện vọng được các cháu ở cùng. Về việc cấp dưỡng nuôi con nếu anh H nuôi con thì chị cũng có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con cùng anh H với mức 1.000.000 đồng/ 01 tháng/01 cháu đến khi các cháu đủ tuổi thành niên.
Về tài sản chung: Chị Th xác định vợ chồng không có tài sản gì chung nên không có yêu cầu gì.
Đối với anh Phạm Văn H: Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh H đến trụ sở để giải quyết việc ly hôn nhưng anh H không đến Tòa án để làm việc. Tiến hành làm việc với đại diện gia đình là ông Phạm Văn Minh (tên gọi khác Phạm Văn Quốc) là bố đẻ anh H thì xác định được anh H hiện vẫn đăng ký hộ khẩu tại thôn Hiền Lương, xã Phù Lương. Anh H cũng đã từ nhiều năm nay không thường xuyên có mặt ở nhà vì đi làm ăn xa, anh H làm công việc tự do ít có mặt tại nhà nhưng gia đình vẫn liên hệ với anh H bằng số điện thoại 0979.687.187. Khi có công việc nhà anh H vẫn về. Tòa án đã tiến hành giao các văn bản tố tụng, thông báo triệu tập anh H thông qua ông Minh nhưng anh H vẫn cố tình vắng mặt không làm việc trong thời gian chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa.
Qua xác minh quan hệ hôn nhân, mâu thuẫn vợ chồng từ phía ông Minh thì thấy, vợ chồng mâu thuẫn với nhau cũng đã nhiều năm nay. Bản thân anh H là người ham chơi, không chịu tu chí làm ăn, không quan tâm gia đình, vợ con. Vợ chồng kể từ khi lấy nhau vào Nam ra Bắc nhưng cũng không đâu vào đâu, cuộc sống vợ chồng vẫn khó khăn, vợ chồng ly thân từ năm 2010 đến nay. Nay chị Th có yêu cầu ly hôn, phía gia đình ông Minh cũng không muốn vợ chồng chia tay nhưng nếu vợ chồng đã thực sự không ở được với nhau thì đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của chị Th. Ông Minh cũng xác nhận vợ chồng có 02 con chung là cháu Thắm và cháu Hùng. Cháu Thắm đã lấy chồng, sinh con, còn cháu Hùng đang đi học cấp 2 tại trường của xã. Do các cháu từ lâu cũng đã ở với hai ông bà nên ly hôn ông cũng đề nghị Tòa án giao con chung cho anh H chăm sóc để ông bà có điều kiện tiếp tục chăm nuôi các cháu như từ trước đến nay ông bà đã chăm nuôi các cháu. Lời khai của cháu Thắm và cháu Hùng cũng có nguyện vọng được ở với bố để các cháu tiếp tục được ở gần ông bà nội và có điều kiện ổn định cuộc sống, ổn định viêc học tập, làm việc như hiện tại.
Tại phiên tòa phía chị Th vẫn giữ yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn. Về con chung chị đồng ý để hai con chung tiếp tục ở với bố. Về cấp dưỡng nuôi con chị rút đề nghị, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết mà việc này chị tự nguyện sẽ có trách nhiệm, nghĩa vụ cấp dưỡng cho các cháu. Đối với anh H vắng mặt nên không có lời trình bày tại phiên tòa.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ tiến hành tố tụng tại phiên tòa phát biểu ý kiến về vụ án: Về tố tụng, quá trình chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán, những người tiến hành tố tụng khác và phía nguyên đơn trong vụ án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự, không có vi phạm phải kiến nghị khắc phục. Đối với bị đơn đã được Tòa án tiến hành thủ tục tố tụng đầy đủ, đảm bảo đúng quy định nhưng anh H vẫn vắng mặt tại các buổi làm việc, vắng mặt tại phiên họp chứng cứ, hòa giải, vắng mặt phiên tòa nên căn cứ các điều 207, 227, 228 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự việc xét xử vắng mặt anh H là có căn cứ. Về giải quyết vụ án, thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và kéo dài, vợ chồng đã ly thân đã 10 năm nay nhưng vẫn không có biện pháp đoàn tụ. Bản thân anh H không đến Tòa án làm việc chứng tỏ anh H cũng không tha thiết gì việc vợ chồng đoàn tụ. Vợ chồng không thể tiếp tục chung sống hạnh phúc được nên căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Th. Về con chung căn cứ vào nguyện vọng của chị Th, của hai con chung cần giao cho anh H được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con chung do đương sự không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung không có và đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Chị Th phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Từ nội dung trên:
[1]. Về tố tụng: Qua xác minh tại gia đình anh H thì xác định được anh H hiện vẫn có hộ khẩu thường trú tại thôn Hiền Lương, xã Phù Lương, huyện Quế Võ. Anh H đi làm tự do không thường xuyên về nhà nhưng vẫn có liên lạc với gia đình, khi gia đình có công việc anh vẫn về mà không thuộc trường không xác định được tung tích. Do anh H vắng nhà không thực hiện được việc tống đạt trực tiếp văn bản tố tụng, nên Tòa án đã tiến hành giao văn bản cho ông Minh là bố đẻ anh H và ông Minh cam kết gửi, thông báo văn bản cho anh H. Ông Minh cũng xác định đã thông báo văn bản tố tụng của Tòa án tới cho anh H nhưng anh H vẫn cố tình vắng mặt, cố tình không tham gia tố tụng tại Tòa án. Tại phiên tòa anh H vắng mặt lần thứ 2, do vậy căn cứ vào các Điều 207, 227, 228 của Bộ Luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh H là có căn cứ, đúng quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung: Chị Chu Th Th kết hôn với anh Phạm Văn H vào tháng 3/2002, kết hôn do tự nguyện và có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Phù Lương, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh nên đây là hôn nhân hợp pháp.
Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì nảy sinh mâu thuẫn mà nguyên nhân theo chị Th là do anh H ham chơi bời bạn bè, không chí thú xây dựng gia đình. Anh H quan hệ trai gái bừa bãi hết cô này đến cô khác, không có trách nhiệm gì với vợ con nên đã làm cho mẫu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn. Vợ chồng đã ly thân nhau từ năm 2010 đến nay nhưng cũng không cải thiện được mối quan hệ. Kể từ khi ly thân cũng không ai quan tâm đến ai, tình cảm vợ chồng đã hết.
Trong thời gian chuẩn bị xét xử Tòa án cũng đã nhiều lần thông báo anh H đến Tòa để làm việc cũng như tiến hành hòa giải giữa hai bên nhưng anh H không đến làm việc chứng tỏ anh H cũng không tha thiết gì chuyện đoàn tụ vợ chồng. Điều này cũng phù hợp với ý kiến của phía gia đình anh H khi xác định vợ chồng khó có thể đoàn tụ được. Nay phía chị Th nhất định đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Thấy rằng vợ chồng mâu thuẫn với nhau đã trầm trọng và kéo dài, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vợ chồng ly thân thời gian cũng đã rất dài nhưng vẫn không cải thiện được mối quan hệ, tình cảm vợ chồng đã hết nên cần chấp nhận yêu cầu của chị Th, xử cho chị Th được ly hôn anh H.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Phạm Th Thắm, sinh ngày 7/3/2003 và cháu Phạm Văn Hùng, sinh ngày 27/01/2009. Cháu Thắm hiện đã lấy chồng có gia đình riêng nhưng vợ chồng cháu vẫn ở cùng với bố và ông bà nội, cháu Hùng thì đang đi học. Xem xét nguyện vọng của chị Th cũng như nguyện vọng của cháu Thắm, cháu Hùng và nguyện vọng của ông Minh thì thấy. Hiện cháu Thắm đã chuẩn bị đến tuổi thành niên, cháu Hùng thì cũng đang sống và học tập ổn định cùng với bố, với ông bà nội. Nguyện vọng của cháu Thắm, cháu Hùng cũng muốn được ở với bố để được gần ông bà nội nên ly hôn cần chấp nhận nguyện vọng của chị Th. Giao hai con chung cho anh H được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc. Về cấp dưỡng nuôi con chung không xem xét giải quyết do đương sự không yêu cầu.
Về tài sản chung: Chị Th trình bày không có và cũng không có yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết.
[3]. Về án phí: Chị Th phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
Bởi các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 28, Điều 147, 207, 227, 228 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Chu Th Th được ly hôn anh Phạm Văn H.
2. Về con chung: Giao cho anh H được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung là các cháu Phạm Th Thắm, sinh ngày 7/3/2003 và cháu Phạm Văn Hùng, sinh ngày 27/01/2009. Cấp dưỡng nuôi con chung không xem xét giải quyết do đương sự không yêu cầu. Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được ngăn cản việc thực hiện quyền này.
3. Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết do đương sự không yêu cầu.
4. Về án phí: Chị Chu Th Th phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí ly hôn mà chị Th đã nộp theo biên lai thu số 0002480 ngày 12/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.
Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về ly hôn giữa chị Th, anh H
Số hiệu: | 08/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về