Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 03/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 03 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 415/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2021/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị D, sinh năm 1974 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 8, ấp P, xã H, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

2. Bị đơn: Ông Lê Văn N, sinh năm 1967 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 8, ấp P, xã H, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn - bà Trần Thị D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị D và ông Lê Văn N tự nguyện chung sống vợ chồng từ năm 1990 và đăng ký kết hôn ngày 11-9-1991 tại Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện H, tỉnh N. Thời gian đầu vợ chồng sống tại tỉnh N. Đến năm 1993 vợ chồng chuyển đến sinh sống tại tổ 8, ấp P, xã H, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho đến nay. Bà D và ông N chung sống hạnh phúc được một năm thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống không tìm được tiếng nói chung. Ông N quản lý về kinh tế, chi tiêu trong gia đình và có tính hay chửi mắng vợ con nên vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Đầu năm 2020 thì mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn, ông N thường xuyên đi nhậu và chửi mắng bà D. Từ tháng 5-2020 đến nay, vợ chồng ly thân.

Nay, bà D nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau và không thể chung sống với nhau được nữa nên bà D yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông N.

Về con chung: Bà D và ông N có 02 người con chung tên là Lê Xuân T, ngày 21-01-1992 và Lê Thị Thu H, sinh ngày 24-4-2006. Cháu T đã trưởng thành, có khả năng lao động và có thu nhập nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Cháu H bị bệnh Down bẩm sinh được nhà nước trợ cấp 640.000đồng/tháng, cháu không thể đi học và cần có người chăm sóc. Hiện bà D là người đang chăm sóc cháu H. Bà D yêu cầu được nuôi dưỡng cháu H và không yêu cầu ông N phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn - ông Lê Văn N: Quá trình Tòa án giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông Lê Văn N đều vắng mặt không có lý do, không có văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà D. Vì vậy, vụ án không tiến hành hòa giải được và Tòa án đưa vụ án ra xét xử công khai theo quy định của pháp luật tố tụng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Trần Thị D khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn - ông Lê Văn N và bị đơn có địa chỉ tại xã H, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, đây là vụ án tranh chấp ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Điền.

Nguyên đơn vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vắng mặt bà D và ông N là đúng quy định.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Bà D và ông N tự nguyện chung sống vợ chồng và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp.

[2.2] Xét yêu cầu ly hôn của bà D thì thấy: Thời gian chung sống với nhau, theo bà D giữa bà và ông N không có được sự yêu thương, chia sẻ, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau thể hiện ở việc vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không hợp tính tình, thường xuyên xảy ra cãi vã. Từ tháng 5 năm 2020 đến nay vợ chồng ly thân, không ai còn quan tâm đến ai nữa. Mặt khác, từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa hôm nay, ông N đều vắng mặt. Điều này, chứng tỏ ông N không có thiện chí đoàn tụ, không còn quan tâm, liên lạc gì với nhau.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa bà D và ông N là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà D.

[2.3] Về con chung: Bà D và ông N có 02 người con chung tên là Lê Xuân T, ngày 21-01-1992 và Lê Thị Thu H, sinh ngày 24-4-2006.

Đối với cháu T đã trưởng thành, có khả năng lao động, có thu nhập. Bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Đối với cháu H bị bệnh Down bẩm sinh, có giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H, huyện L là đối tượng được nhà nước trợ cấp xã hội là 640.000đồng/tháng. Cháu H không thể đi học, việc ăn uống và vệ sinh cá nhân đều phải có người chăm sóc. Hiện, bà D đang là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu H. Nên việc giao cháu H cho bà D tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[3] Về án phí: Bà D phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-6-2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị D.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị D được ly hôn ông Lê Văn N.

2. Về con chung: Giao con chung tên Lê Thị Thu H, sinh ngày 24-4-2006 cho bà Trần Thị D là người trực tiếp nuôi dưỡng. Ông N không phải cấp dưỡng nuôi con do bà D không có yêu cầu.

Ông Lê Văn N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở.

Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định pháp luật. Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà D không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí: Bà Trần Thị D phải nộp 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền đã tạm nộp án phí theo Biên lai thu tiền số 0004202 ngày 08-10-2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Bà D đã nộp đủ.

5. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án các đương sự có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt, thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 08/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;