TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ QUAO, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 08/2021/DS-ST NGÀY 27/01/2021 VỀ TRANH CHẤP NỢ HỤI
Trong ngày 27 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 175/2020/TLST-DS, ngày 11/11/2020 về việc “Tranh chấp Nợ hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2021/QĐXXST-DS, ngày 14 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thu T1 – sinh năm 1988 (có mặt); Địa chỉ: Ấp 1, xã Vĩnh HHB, huyện G, tỉnh Kiên Giang.
- Bị đơn: Bà Võ Thị Phương T – sinh năm 1980 (có mặt). Địa chỉ: Ấp 1, xã Vĩnh HHB, huyện G, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 25/9/2020, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Bà Nguyễn Thu T trình bày:
Bà bắt đầu tham gia chơi hụi của bà Võ Thị Phương T từ năm 2007, tất cả các dây hụi trước đều đã mãn và hốt xong. Tiếp theo, vào năm 2014, bà tiếp tục tham gia chơi 04 chân hụi trong 02 dây hụi do bà Võ Thị Phương T làm chủ, bà đã hốt 02 chân còn 02 chưa mãn nhưng bà T tuyên bố ngưng hụi, cụ thể gồm các dây hụi sau:
- Dây hụi 2.000.000đ/tháng: Áp hụi ngày 06/4/2014 al, có 27 chân, bà chơi 02 chân, bà đã hốt hết 02 chân này.
- Dây hụi 2.000.000đ/tháng: Áp hụi ngày 06/02/2015 al, có 28 chân, bà chơi 01 chân, bà đã đóng 21 lần được số tiền 42.000.000đ (tính theo hụi chết).
- Dây hụi 3.000.000đ/tháng: Áp hụi ngày 10/6/2015 al, có 28 chân, bà chơi 01 chân, bà đã đóng 18 lần được số tiền 54.000.000đ (tính theo hụi chết).
Tổng cộng số tiền 02 chân hụi trên bà Thảo còn nợ bà 96.000.000đ, khấu trừ đi số tiền bà còn nợ lại hụi chết của bà T 14 lần x 2.000.000đ/lần là 28.000.000đ, trừ 8.000.000đ bà nợ hụi bà Nguyễn Thị C (mẹ bà T), còn lại bà T nợ bà là 60.000.000đ. Bà T có viết Tờ cam kết (biên nhận) vào ngày 19/11/2016 âl giao cho bà giữ hứa trả dần cho bà mỗi tháng 5.000.000đ, bắt đầu trả từ ngày 15/12/2016 âl nhưng bà T không thực hiện đúng theo cam kết trên. Bà đã nhiều lần đến yêu cầu bà Thảo trả nợ nhưng bà T chỉ hứa hẹn nhưng vẫn không trả. Sau đó bà T có nhờ mẹ bà T là bà C gởi trả cho bà được 3.000.000đ, còn lại 57.000.000đ.
Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thu T1 đồng ý khấu trừ tiếp với bà T số tiền nợ hụi mà mẹ chồng bà T1 là bà Lê Thị T2 (tức bà 5 Thăng) nợ bà T là 19.000.000đ, việc trừ cấn này bà T1 yêu cầu chị và bà T2 sẽ tự thỏa thuận ở địa phương chị T1 không yêu cầu đưa bà T2 vào tham gia tố tụng trong vụ kiện này. Bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Võ Thị Phương T phải trả cho bà số tiền nợ hụi còn lại tổng cộng là 38.000.000đ (Ba mươi tám triệu đồng), bà đồng ý cho bà T trả dần mỗi tháng 2.000.000đ nếu bà T không đồng ý thì bà yêu cầu trả đủ một lần.
Đối với yêu cầu khởi kiện nêu trên của nguyên đơn, tại Bản tự khai ngày 09/12/2020 và tại phiên tòa bị đơn bà Võ Thị Phương T trình bày:
Bà T thừa nhận: Bà T1 có tham gia chơi hụi do bà làm chủ. Các chân hụi, dây hụi và số lần đóng hụi, hốt hụi, nợ giữa bà với bà T1 trừ cấn như bà T1 kê ra là đúng. Bà cũng thừa nhận số tiền hụi khi ngưng xổ bà có viết biên nhận giao cho bà T1 giữ số nợ bà còn nợ bà T1 là 60.000.00đ. Nay sau khi trừ cấn xong bà thống nhất còn nợ lại bà T1 38.000.000đ nhưng bà cho rằng hiện nay hụi bể, bà nợ nhiều người nên không có khả năng trả nợ một lần theo yêu cầu của chị T1 cũng như trả mỗi tháng 2.000.000đ bà cũng không trả nổi, bà xin bà T1 cho trả dần mỗi tháng là 200.000đ cho đến khi hết nợ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp: Cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm nên bà Bà Nguyễn Thu T1 khởi kiện bà Võ Thị Phương T về việc “Tranh chấp nợ hụi” được Tòa án thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại khoản 3 Điều 26 và Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[2] Về nội dung: Thời gian vào năm 2014, giữa bà Bà Nguyễn Thu T1 và bà Võ Thị Phương T có thỏa thuận góp hụi với nhau, bà T làm chủ hụi, bà T1 là thành viên trong các dây hụi: Dây hụi 2.000.000đ/tháng, hụi áp ngày 06/4/2014 al; Dây hụi 2.000.000đ/tháng, hụi áp ngày 06/02/2015 al và Dây hụi 3.000.000đ/tháng, hụi áp ngày 10/6/2015 al. Quá trình chơi hụi, bà T1 thực hiện đầy đủ nghĩa vụ góp hụi của 05 chân hụi trên cho đến khi bà T ngưng xổ hụi. Tuy nhiên, từ khi ngưng xổ hụi đến nay, bà T vẫn chưa giao tiền hụi đầy đủ cho bà T1 nên bà T1 khởi kiện đòi lại số tiền nợ hụi bà T còn nợ là 38.000.000đ. Xét về nội dung và hình thức hợp đồng góp hụi như trên giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp theo Điều 471 Bộ luật Dân sự 2015 nên phát sinh hiệu lực thi hành.
[3] Xét yêu cầu của bà T1 buộc bà T phải trả số tiền nợ hụi là 38.000.000đ. Quá trình giải quyết vụ án, bà T1, bà T đều thừa nhận và thống nhất việc trừ cấn tiền hụi sống, hụi chết và tiền nợ của hai bên cụ thể: Bà T1 và bà T thống nhất khấu trừ số tiền bà T1 còn nợ lại hụi chết của bà T 14 lần x 2.000.000đ/lần là 28.000.000đ, trừ 8.000.000đ bà T1 nợ hụi bà Nguyễn Thị C (mẹ bà T), trừ 3.000.000đ bà T nhờ mẹ bà T là bà C gởi trả cho bà T1 và trừ 19.000.000đ mẹ chồng bà T1 là bà Lê Thị T2 (tức bà 5 Thăng) nợ bà T, sau khi khấu trừ tất cả các khoản bà T còn nợ lại bà T1 số tiền 38.000.000đ.
HĐXX thấy rằng, bà T không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao tiền hụi theo đúng cam kết là đã vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 18 Nghị định 19/2009/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường và yêu cầu xin được trả nợ dần của bà cũng không được bà T1 đồng ý cho nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T1 và buộc bà T có trách nhiệm thanh toán số nợ hụi này cho bà T1 là phù hợp.
[4] Về án phí: Bà Võ Thị Phương T phải chịu án phí dân sự có giá ngạch là 1.900.000đ (38.000.000đ x 5%) do bà có lỗi trong vụ kiện này.
Bà Nguyễn Thu T1 được nhận lại số tiền đã nộp tạm ứng án phí là 1.500.000đ (Một triệu, năm trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0009548 ngày 11/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 471 và Điều 688 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 18, Điều 23 Nghị định 19/2009/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Bà Nguyễn Thu T1.
Buộc bà Võ Thị Phương T có nghĩa vụ trả cho bà Bà Nguyễn Thu T1 số tiền nợ hụi còn lại tổng cộng là 38.000.000đ (Ba mươi tám triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bà T cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bà Thảo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Bà Võ Thị Phương T phải chịu án phí dân sự có giá ngạch là 1.900.000đ (Một triệu, chín trăm nghìn đồng).
Bà Nguyễn Thu T1 được nhận lại số tiền đã nộp tạm ứng án phí là 1.500.000đ (Một triệu, năm trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0009548 ngày 11/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao.
3. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 27/01/2021.
Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 9 Luật thi hành án dân sự và các Điều 7, 7a, 7b Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 08/2021/DS-ST ngày 27/01/2021 về tranh chấp nợ hụi
Số hiệu: | 08/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gò Quao - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về