Bản án 08/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 08/2020/HS-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Thị Q, sinh năm 1983 tại Thanh Hóa. Nơi cư trú: Số 157/28, đường 3/2, phường I, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Đạo phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Huy T, sinh năm 1954 và bàTrần Thị H, sinh năm 1960; có chồng là Châu Phước H1, sinh năm 1974 và 01 người con, sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị khởi tố và bị bắt tạm giam từ ngày 21/4/2019 cho đến nay, (có mặt)

2. Họ và tên: Nguyễn Thị Oanh K, sinh năm 1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi cư trú: Số 141/12, đường N, phường X, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tấn N, sinh năm 1963 và bà Phạm Thị X, sinh năm 1967; có 01 người con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị khởi tố và bị bắt tạm giam từ ngày 21/4/2019 cho đến nay, (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Q: Ông Vưu Tấn Thanh, Luật sư của Văn phòng luật sư Vưu Văn Kía thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bạc Liêu, (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Oanh K: Ông Huỳnh Phước Hậu, Luật sư của Văn phòng Luật sư Nguyễn Thị Hảo thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bạc Liêu, (có mặt).

- Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Huỳnh Lê Tố N, sinh năm 1995. Địa chỉ: Số 5/122A, Khóm 5, Phường 2, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu, (vắng mặt).

2. Bà Trần Thị H, sinh năm 1960. Địa chỉ: Thôn 7, Tân Sơn, xã Thành Kim, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa, (có mặt).

3. Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn HD SaiSon. Địa chỉ: Số 8, 9, 10 Tòa nhà Gilimex, 24C, Phan Đăng Lưu, Phường 6, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Minh T, sinh năm 1989. (theo giấy ủy quyền số 200522-01/UQ-COL ngày 22/5/2020), (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Thị Q vàNguyễn Thị Oanh K là bạn bè, quen biết nhau khoảng năm 2016, cả hai cùng nghiện ma túy, để có tiền sử dụng ma túy, Q mua ma túy rồi bán lại cho các con nghiện, K với vai trò giúp sức cho Q đã trực tiếp đi giao ma túy cho người mua, K được Q trả công mỗi ngày 200.000đ và cho ma túy sử dụng. Với cách thức và thủ đoạn nêu trên, vào ngày 21/4/2019, Q đã thỏa thuận với người tên P (không rõ họ tên, địa chỉ) để mua 100 gam ma túy với giá 41.000.000đ và sau đó thỏa thuận mang ma túy từ Thành phố Hồ Chí Minh về Bạc Liêu bán cho Huỳnh Lê Tố N với giá 48.000.000đ; đồng thời Q vàK mang theo ma túy để sử dụng. Khi đến địa bàn tỉnh Bạc Liêu thì Q vàK đã bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bạc Liêu phát hiện và bắt quả tang. Quá trình bắt quả tang, cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ số ma túy cất giấu trong loa nghe nhạc, ba lô của K và trong túi xách của Q.

Ngoài lần thực hiện hành vi phạm tội thì vào ngày 13/4/2019, tại phòng số 202 khách sạn Thiên Phú, Q vàK còn bán 100 gam ma túy đá với giá 45.000.000đ cho đối tượng tên N1 (không rõnhân thân, do N giới thiệu là bạn của N). Số ma túy này, Q cũng mua của P với giá 42.000.000đ. Vào ngày 21/4/2019, tại phòng số 303 khách sạn Thiên Phú, Q kêu K đi giao ma túy cho 02 người thanh niên (không rõ nhân thân) tại quán Karaoke Benly (số 414, T, phường Q, quận B, thành phố Hồ Chí Minh) 02 lần, mỗi lần 300.000đ.

Ngày 22 và 23/4/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bạc Liêu tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Huỳnh Lê Tố N (số 5/122A, khóm S, phường L, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu); Phòng số 303, Khách sạn Thiên Phú (Số 56, đường T, phường Q, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh); Chỗ ở của Nguyễn Thị Oanh K (số 141/12, đường N, phường X, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh); xe ô tô biển kiểm soát 51C – 727.04 do tài xế Nguyễn Minh Hoàng N1 điều khiển chở Q vàK đi từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Bạc Liêu vào ngày 21/4/2019; qua khám xét không phát hiện đồ vật gì có liên quan đến tội phạm. Riêng khám xét nơi ở của bà Trần Thị H là mẹ của Q (số 294/2, đường P, phường P, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh), Cơ quan Sảnh sát điều tra phát hiện và thu giữ 04 ống thủy tinh dạng phễu, trong đó có một ống bị bể phần trên đầu.

Tại bản kết luận giám số 37/KLGĐ-PC09 ngày 24/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bạc Liêu kết luận:

- Các tinh thể màu trắng bên trong gói nylon là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 98,6940 gam (kí hiệu M1)

- Các tinh thể màu trắng bên trong gói nylon là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,4795 gam (kí hiệu M2)

- Hai viên nén và các mảnh chất rắn màu đỏ bên trong gói nylon là chất ma túy, loại Methamphetamine, có tổng khối lượng là 0,2603 gam (kí hiệu M3)

- Các tinh thể màu trắng bên trong gói nylon là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 2,5240 gam (kí hiệu M4)

- Không tìm thấy chất ma túy trong các viên nén (16 viên) hình trụ (kí hiệu M5)

Tại Cáo trạng số: 01/CT-VKS-P1 ngày 15 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Q và Nguyễn Thị Oanh K về các tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 và điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu giữ nguyên quan điểm như cáo trạng truy tố đối với các bị cáo. Sau khi phân tích hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Q, Nguyễn Thị Oanh K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy và tội “Mua bán trái phép chất ma túy.

* Về hình phạt:

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; khoản 1 Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Q 20 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; xử phạt từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự, tổng hợp chung hình phạt của hai tội, buộc bị cáo Nguyễn Thị Q phải chấp hành hình phạt chung từ 21 năm 06 tháng tùđến 22 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 21/4/2019.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; khoản 1 Điều 38; Điều 58; khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Oanh K từ 16 năm tù đến 18 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự, tổng hợp chung hình phạt của hai tội, bị cáo Nguyễn Thị Q phải chấp hành hình phạt chung từ 17 năm 06 tháng tù đến 19 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 21/4/2019.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, b, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) hộp niêm phong bên ngoài có ghi 37/GĐ - 2019, có chữ ký của Hồ Trọng Nguyễn, Nguyễn Quốc Khải và dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bạc Liêu. Tình trạng bình thường, niêm phong nguyên vẹn; 01 (một) cái loa nghe nhạc màu đen, xám có dòng chữ WSTER ws-1601, đã qua sử dụng; 01 (một) túi xách màu đen, vàng gold có dán tem ghi chữ KIM THỊNH, đã qua sử dụng; 01 (một) cái Ba lô màu đen trên các móc kéo có dòng chữ LUOLIERXIUIAN, đã qua sử dụng; 13 (mười ba) ống thủy tinh, trong đó có một ống bị bể phần trên đầu và 07 ống hút nhựa màu trắng; 02 sim mobiphone nằm trong điện thoại di động màu đen có ghi dòng chữ OPPO; 01 sim mobiphone nằm trong điện thoại di động màu vàng Gold có dòng chữ Iphone.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: Tiền việt nam 3.675.000đ (ba triệu sáu trăm bảy mươi lăm ngàn đồng) tại biên lai thu số 006063 ngày 17/01/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu; một điện thoại di động màu đen có ghi dòng chữ OPPO, không kiểm tra tình trạng máy, máy đã qua sử dụng ; một điện thoại di động màu vàng Gold có dòng chữ Iphone, không kiểm tra tình trạng máy, máy đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bà Trần Thị Hoàn 01 thẻ ATM có chữ AGRIBANK, TRAN THI HOAN số 9704050766191154.

- Giao 01 (một) xe môtômang biển số 59F2 – 135.46, số loại VISION, màu trắng đen, đã qua sử dụng cho cho Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu phối hợp với Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn HD SaiSon xử lý bán đấu giá tài sản để Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn HD SaiSon thu hồi nợ vay (Theo hợp đồng thế chấp số 2W013315325 ngày 05/4/2020). Phần giá trị còn lại (nếu có) tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Oanh Kiều là ông Huỳnh Phước Hậu trình bày: Thống nhất về tội danh, về các tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thời điểm phạm tội bị cáo đang nuôi con nhỏ, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, mẹ bị cáo 01 mình phải chăm sóc cho con của bị cáo, sẽ ảnh hưởng đến tâm sinh lý của con bị cáo, bị cáo lần đầu phạm tội và chỉ là đồng phạm giúp sức thứ yếu cho bị cáo Q nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự cho bị bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Q là ông Vưu Tấn Thanh trình bày: Thống nhất về tội danh mà Viện kiểm sát truy tố, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có cha là người có công cách mạng, xuất thân là lao động nghèo, chưa có tiền án, tiền sự nên kính mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được mức án thấp nhất để bị cáo an tâm cải tạo, sớm trở thành người công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, không có khiếu nại về hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, nên hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết luận giám định nên Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định: Xuất phát từ động cơ vụ lợi, xem thường pháp luật, ngày 21/4/2019, bị cáo Nguyễn Thị Q trao đổi, thỏa thuận với người tên P (không rõ nhân thân, lai lịch) để mua ma túy, bị cáo Nguyễn Thị Q và bị cáo Nguyễn Thị Oanh K đến gặp P lấy ma túy, đem từ Thành phố Hồ Chí Minh về Bạc Liêu bán cho Huỳnh Lê Tố N và có mang theo để sử dụng thì bị Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bạc Liêu phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật. Quá trình điều tra chứng minh được số ma túy các bị cáo mua bán, qua giám định làma túy đá, loại Methamphetamine, có khối lượng 101,9578 gam; số ma túy các bị cáo có hành vi tàng trữ để sử dụng, qua giám định là ma túy đá, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,4795 gam. Riêng bị cáo Nguyễn Thị Q còn cất giấu 02 viên nén, qua giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2603 gam. Do đó, Cáo trạng số: 01/CT-VKS- P1 ngày 15 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Q và Nguyễn Thị Oanh K về các tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 và điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo Nguyễn Thị Q, Nguyễn Thị Oanh K có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, các bị cáo biết được việc mua bán, tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vì lợi ích cá nhân các bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của các bị cáo Nguyễn Thị Q, Nguyễn Thị Oanh K đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây tác hại xấu đến mọi mặt của đời sống xã hội, là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các tệ nạn xã hội. Do đó, đối với các bị cáo cần có mức án nghiêm khắc và cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài để cải tạo, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho các bị cáo và cũng để răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Trong vụ án này, bị cáo Q với vai trò là người chủ mưu, cầm đầu, trực tiếp dùng điện thoại di động trao đổi, thỏa thuận mua ma túy về bán và thỏa thuận với người mua về số lượng và giá bán, bị cáo Nguyễn Thị Oanh K chỉ là đồng phạm giúp sức cùng bi cáo Q đi Bạc Liêu để giao ma túy. Ngoài ra, các bị cáo còn bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo Q với khối lượng ma túy 0,7398 gam, bị cáo K với khối lượng ma túy 0,4795 gam. Do đó, mức hình phạt đối với bị cáo Q đối với cả hai hành vi phạm tội nêu trên phải cao hơn bị cáo Kiều mới phản ánh rõmức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra và thể hiện đầy đủ tính nghiêm minh, công bằng trong pháp luật. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà các bị cáo được hưởng như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo Nguyễn Thị Q có cha ruột tên Nguyễn Huy T là người có công với cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo. Riêng đối với bị cáo Nguyễn Thị Oanh K là đồng phạm chỉ giữ vai trògiúp sức trong vụ án, nên cần thiết áp dụng khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự, quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.

[4] Về xử lý vật chứng: Tại phiên tòa, các bị cáo yêu cầu xử lý tài sản theo quy định pháp luật, đại diện Công ty Tài chính TNHH HD SaiSon yêu cầu xử lý phát mãi xe mô tô biển kiểm soát 59F2 – 135.46 để thu hồi nợ cho Công ty, bà Trần Thị H yêu cầu được nhận lại thẻ ATM. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, b, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xem xét, xử lý các vật chứng có liên quan như sau:

[4.1] Tịch thu tiêu hủy công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành, vật không có giá trị, không sử dụng được: 01 (một) hộp niêm phong bên ngoài cóghi 37/GĐ - 2019, có chữ ký của Hồ Trọng Nguyễn, Nguyễn Quốc Khải và dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bạc Liêu. Tình trạng bình thường, niêm phong nguyên vẹn; 01 (một) cái loa nghe nhạc màu đen, xám có dòng chữ WSTER ws-1601, đã qua sử dụng; 01 (một) túi xách màu đen, vàng gold có dán tem ghi chữ KIM THỊNH, đã qua sử dụng; 01 (một) cái Ba lô màu đen trên các móc kéo có dòng chữ LUOLIERXIUIAN, đã qua sử dụng; 13 (mười ba) ống thủy tinh, trong đó có một ống bị bể phần trên đầu và 07 ống hút nhựa màu trắng; 02 sim mobiphone nằm trong điện thoại di động màu đen có ghi dòng chữ OPPO; 01 sim mobiphone nằm trong điện thoại di động màu vàng Gold có dòng chữ Iphone.

[4.2] Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước các vật chứng là công cụ, phương tiện, tài sản liên quan đến việc phạm tội gồm: Tiền việt nam 3.675.000đ (ba triệu sáu trăm bảy mươi lăm ngàn đồng) tại biên lai thu số 006063 ngày 17/01/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu; một điện thoại di động màu đen cóghi dòng chữ OPPO, không kiểm tra tình trạng máy, máy đã qua sử dụng; một điện thoại di động màu vàng Gold có dòng chữ Iphone, không kiểm tra tình trạng máy, máy đã qua sử dụng.

[4.3] Đối với thẻ ATM có chữ ARIBANK, TRAN THI HOAN và số: 9704050766191154, tại phiên tòa bà Trần Thị H yêu cầu được nhận lại, xét thấy là đồ vật của bà Hoàn cho bị cáo Q mượn và cũng không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bà Trần Thị H là phù hợp.

[4.4] Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 59F2 – 135.46, loại Vision, màu trắng đen. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị Oanh K trình bày xe mô tô là do bị cáo Nguyễn Thị Q mua, bị cáo Kiều chỉ là người đứng tên chủ sở hữu và đứng tên trong hơp đồng thế chấp tài sản đối với Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn HD SaiSon, các bị cáo đều thừa nhận có dùng xe mô tô này để đi giao dịch mua ma túy của người tên P. Tuy nhiên, người đại diện theo ủy quyền của Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn HD SaiSon yêu cầu được bán phát mãi tài sản đảm bảo để thu hồi nợ vay cho Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn HD SaiSon, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mặc dù, chiếc xe mô tô biển kiểm soát 59F2 – 135.46, loại Vision các bị cáo dùng vào việc phạm tội nhưng để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của Công ty tài chính HD SaiSon, nên cần tịch thu giao Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu xử lý bán đấu giá để thu hồi nợ vay cho Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn HD SaiSon, phần giá trị còn lại (nếu có) tịch thu sung vào ngân sách nhà nước là phù hợp.

[5] Đối với Huỳnh Lê Tố N, quá trình điều tra không thừa nhận hành vi mua ma túy của bị cáo Q, không đủ chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bạc Liêu không xử lý và ra Quyết định trả tự do cho N là phù hợp.

[6] Đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Nguyễn Thị Q và Nguyễn Thị Oanh K cho người tên N1 bạn của N vào ngày 13/4/2019 xảy ra tại Thành phố Hồ Chí Minh nên Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bạc Liêu chuyển thông tin tội phạm đến Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh xử lý theo thẩm quyền. Đối với hành vi bán ma túy cho hai người thanh niên tại quán Karaoke BENLEY tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 21/4/2019, ngoài lời khai của các bị cáo thì không có tài liệu chứng cứ khác để chứng minh nên không xử lý là phù hợp.

[7] Đối với người tên P, Đ quá trình điều tra không xác minh được nhân thân lai lịch nên không có căn cứ để xử lý. Đối với Nguyễn Minh Hoàng N1, bà Trần Thị H, ông Nguyễn Quang D, ông Bình N, qua điều tra chứng minh được những người này không không biết việc các bị cáo Q, Kiều hoạt động tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy nên không đề cặp xử lý là có căn cứ.

[8] Đối với hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” của Nguyễn Thị Q, Nguyễn Thị Oanh K, Huỳnh Lê Tố N và Nguyễn Minh Hoàng N đã vi phạm vào khoản 1 Điều 21 Nghị định số: 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình nên ngày 08/8/2019, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bạc Liêu đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

[9] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu về hình phạt đối với bị cáo Kiều là có phần nghiêm khắc nên Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận một phần, các đề nghị còn lại của Viện kiểm sát được chấp nhận. Đối với đề nghị của các Luật sư bào chữa cho bị cáo Q, bị cáo Kiều về hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo Q là người chủ mưu, cầm đầu, bị cáo Kiều chỉ giữ vai trò giúp sức nên không chấp nhận đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo Q màchấp nhận đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo K.

[7] Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Thị Q và Nguyễn Thị Oanh K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Q, Nguyễn Thị Oanh K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; khoản 1 Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Q 20 (hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; khoản 1 Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Q 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt hai tội, buộc bị cáo Nguyễn Thị Q phải chấp hành hình phạt chung là21 (hai mươi mốt) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 21/4/2019.

3. Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; khoản 1 Điều 38; Điều 58; khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Oanh K 15 (mười lăm) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; khoản 1 Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Oanh K 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự. Tổng hợp hình phạt hai tội, buộc bị cáo Nguyễn Thị Oanh K phải chấp hành hình phạt chung là16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 21/4/2019.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, b, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) hộp niêm phong bên ngoài có ghi 37/GĐ - 2019, có chữ ký của Hồ Trọng Nguyễn, Nguyễn Quốc Khải và dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bạc Liêu. Tình trạng bình thường, niêm phong nguyên vẹn; 01 (một) cái loa nghe nhạc màu đen, xám có dòng chữ WSTER ws-1601, đã qua sử dụng; 01 (một) túi xách màu đen, vàng gold có dán tem ghi chữ KIM THỊNH, đã qua sử dụng; 01 (một) cái Ba lô màu đen trên các móc kéo có dòng chữ LUOLIERXIUIAN, đã qua sử dụng; 13 (mười ba) ống thủy tinh, trong đó có một ống bị bể phần trên đầu và 07 ống hút nhựa màu trắng; 02 sim mobiphone nằm trong điện thoại di động màu đen có ghi dòng chữ OPPO; 01 sim mobiphone nằm trong điện thoại di động màu vàng Gold có dòng chữ Iphone.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: Tiền việt nam 3.675.000đ (ba triệu sáu trăm bảy mươi lăm ngàn đồng) tại biên lai thu số 006063 ngày 17/01/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu; một điện thoại di động màu đen có ghi dòng chữ OPPO, không kiểm tra tình trạng máy, máy đã qua sử dụng; một điện thoại di động màu vàng Gold có dòng chữ Iphone, không kiểm tra tình trạng máy, máy đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bà Trần Thị H: 01 thẻ ATM có chữ AGRIBANK, TRAN THI HOAN và số: 9704050766191154.

- Giao 01 (một) xe môtômang biển số 59F2 – 135.46, số loại VISION, màu trắng đen, đã qua sử dụng cho cho Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu phối hợp với Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn HD SaiSon xử lý bán đấu giá tài sản để Công ty Tài chính Trách nhiệm hữu hạn HD SaiSon thu hồi nợ vay (Theo hợp đồng thế chấp số 2W013315325 ngày 05/4/2020). Phần giá trị còn lại (nếu có) tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

(Đồ vật, tài sản trên hiện Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/01/2020, bút lục 553)

5. Về án phí: Áp dụng các điều 135; 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Nguyễn Thị Q, Nguyễn Thị Oanh Kiều, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án. Người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết công khai bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 08/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:08/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;