Bản án 08/2020/HS-ST ngày 10/03/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN nhân dân HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 08/2020/HS-ST NGÀY 10/03/2020 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2020/QĐXXST- HS ngày 27 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Hồ Văn Nh, sinh ngày 30 tháng 02 năm 1989 tại Hậu Giang; Nơi ĐKHKTT: Khu Vực BT C, phường BT, TX LM, tỉnh HG; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn Ng, sinh năm 1959 và bà Dương Thị L, sinh năm 1960.

Tiền án: 02 tiền án:

Ngày 19/9/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 31/2012/HSST (chưa xóa án tích); Ngày 29/9/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 22/2017/HSST (chưa xóa án tích).

Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/02/2020 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Ông Trương Văn S, sinh năm 1967; Địa chỉ: Khu Vực 1, xã TL, quận TN, thành phố CT.

Tạm trú: Ấp 1, xã L, huyện PG, tỉnh BD, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Trần Xuân T, sinh năm 1974, địa chỉ: Tổ 6, ấp TC, xã PT, thành phố BH, tỉnh ĐN, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồ Văn Nh và ông Trương Văn S cùng là công Nh tại nông trường cao su Lai Uyên thuộc xã Tân Long, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Do xe chở nước của nông trường hết xăng nên khoảng 15 giờ 30 phút ngày 19/02/2018, Nh mượn xe mô tô biển số 65R1 – 3036 của ông S để đi mua xăng tại câ xăng xã Tân Long, huyện Phú Giáo. Ông S giao xe mô tô biển số 65R1 – 3036 cho Nh, Nh mang theo 01 can đựng xăng, khi đi được khoảng 200 mét thì Nh nảy sinh ý định chiếm đoạt xe ông S. Nh quay lại khu nhà ở thuộc đội 7, nông trường cao su Lai Uyên lấy đồ rồi ném can để mua xăng v o lề đường. Nh chạy xe lên huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước để chơi với bạn nhưng không gặp. Nh điều khiển xe mô tô biển số 65R1 – 3036 chạ qua xã Phước Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai chơi với bạn. Đến ngày 23/02/2018 Nh đưa xe mô tô biển số 65R1 – 3036 đến tiệm sửa xe Tân Đồng thuộc ấp Tân Cang, xã Phước Tân, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai do ông Trần Xuân T làm chủ, tại đây Nh chào bán thắng đĩa của xe mô tô biển số 65R1 – 3036 cho ông T nhưng ông T không mua, sau đó Nh và anh T thỏa thuận đổi xe mô tô biển số 65R1 – 3036 lấy xe mô tô 54X4 – 8720 của ông T và ông T bù thêm 2.700.000 đồng. Đến 14 giờ ngày 23/02/2018, Nh bị công an xã Phước Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai mời về làm việc, sau đó bàn giao cho Công an huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Qua điều tra Nh đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Tang vật thu giữ gồm:

- 01 xe mô tô biển số 65R1 - 3036, đây là tài sản hợp pháp của bị hại Trương Văn S, Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông S, ông S đã nhận tài sản và không có yêu cầu gì thêm.

- 01 điện thoại di động hiệu Mobistar, số IMEI: 35785042139357, đây l t i sản hợp pháp của bị cáo Hồ Văn Nh, không liên quan đến việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho Nh.

Bản kết luận định giá tài sản ngày 14/3/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Phú Giáo kết luận chiếc xe môtô biển số 65R1 - 3036 có giá 10.800.000 đồng.

Về mặt dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì thêm.

Đối với h nh vi đổi xe mô tô biển số 65R1 – 3036 lấy xe mô tô 54X4 – 8720 của Nh và ông T cùng các vật chứng là xe mô tô 54X4 – 8720 và số tiền 2.700.000 đồng, công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã thụ lý giải quyết theo quy định.

Cáo trạng số 11/CT-VKSPG ngày 05/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo truy tố bị cáo Hồ Văn Nh về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Hồ Văn Nh về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả, hành vi phạm tội của bị cáo Nh, Kiểm sát viên đề nghị cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 175, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hồ Văn Nh từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (S) tháng tù.

Tại phiên tòa, bị cáo Nh cho rằng Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nh; bị hại ông Trương Văn S, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Xuân T không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các qu ết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 19/02/2018, Nh mượn xe mô tô biển số 65R1 – 3036 của ông Trương Văn S để đi mua xăng tại câ xăng xã Tân Long, huyện Phú Giáo. Ông S giao xe mô tô biển số 65R1 – 3036 cho Nh, Nh mang theo 01 can đựng xăng, khi đi được khoảng 200 mét thì Nh nảy sinh ý định chiếm đoạt xe ông S. Nh quay lại khu nhà ở thuộc đội 7, nông trường cao su Lai Uyên lấy đồ rồi ném can để mua xăng vào lề đường. Đến ngày 23/02/2018 Nh đưa xe mô tô biển số 65R1 – 3036 đến tiệm sửa xe Tân Đồng thuộc ấp Tân Cang, xã Phước Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai do ông Trần Xuân T làm chủ, tại đây Nh chào bán thắng đĩa của xe mô tô biển số 65R1 – 3036 cho ông T nhưng ông T không mua, sau đó Nh và anh T thỏa thuận đổi xe mô tô biển số 65R1 – 3036 lấy xe mô tô 54X4 – 8720 của ông T và ông T bù thêm 2.700.000 đồng. Đến 14 giờ ngày 23/02/2018, Nh bị công an xã Phước Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai mời về làm việc, sau đó bàn giao cho Công an huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Qua điều tra Nh đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 14/03/2018 kết luận xe mô tô biển số 65R1 – 3036, nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn: Đỏ - đen – bạc, số khung: 12228Y504027, số máy: HC12E0511216, bị cáo Nh chiếm đoạt của ông Trương Văn S có giá trị hiện nay là 10.800.000 đồng.

Như vậy, Cáo trạng số 11/CT-VKSPG ngày 05/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo truy tố bị cáo Hồ Văn Nh về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời còn gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi, bị cáo đã thực hiện tội phạm m không nghĩ đến sự trừng phạt của pháp luật. Bản thân bị cáo có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo điểm g khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự. Do đó, cần xử bị cáo mức án thật nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm trừng trị, răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo cho phù hợp.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo thấ được chính sách khoan hồng của pháp luật, sớm nhận ra lỗi lầm của mình, an tâm cải tạo trở thành công dân tốt cho xã hội.

Xét thấy, mức án đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo l tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại ông Trương Văn S đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Đối với h nh vi đổi xe mô tô biển số 65R1 – 3036 lấy xe mô tô 54X4 – 8720 của Nh và ông T cùng các vật chứng là xe mô tô 54X4 – 8720 và số tiền 2.700.000 đồng, công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã thụ lý giải quyết theo quy định.

[5]. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đã được giải quyết xong nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Hồ Văn Nh phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hồ Văn Nh phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2. Về điều luật áp dụng và mức hình phạt: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Xử phạt bị cáo Hồ Văn Nh 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 29/02/2020.

3. Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đã được giải quyết xong nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/PL/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án buộc: Bị cáo Hồ Văn Nh phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 08/2020/HS-ST ngày 10/03/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:08/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;