Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 31/03/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 08/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/03/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 31 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 04/2019/TLST-HNGĐ ngày 02-12-2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 05-3-2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 02/2020/QĐST-HNGĐ ngày 20-3-2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị DKV; đăng ký nhân khẩu thường trú: Số 3 A, phường A, quận B, thành phố Hải Phòng; địa chỉ chỗ ở hiện nay: Thôn 2, xã C, huyện D, thành phố Hải Phòng; có mặt;

- Bị đơn: Anh NND; địa chỉ: Số 3 A, phường A, quận B, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 21-7-2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụa án và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị DKV trình bày:

Chị DKV và anh NND xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện D, thành phố Hải Phòng năm 2011.

Quá trình chung sống vợ chồng giữa hai bên đã phát sinh nhiều mâu thuẫn; nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống và tính cách nên đã sống ly thân và không còn tình cảm, trách nhiệm với nhau. Nay, chị DKV cho rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, khả năng đoàn tụ không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh NND theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Có 01 con là E, sinh ngày 14-10-2012, hiện chị DKV đang trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn, chị DKV có nguyện vọng được nuôi con cho đến khi con thành niên. Viêc câp dương nuôi conhai bên tự thỏa thuận, không yêu câu Toa an giai quyêt.

Về tài sản chung: Chị DKV đề nghị hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn: Anh NND văng măt tai phiên toa. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn cũng như đã nhiều lần triệu tập bị đơn đên Toa an đê lam việc , nhưng anh NND đều văng măt không co ly do và không giao nộp văn bản trình bày quan điểm, ý kiến của mình về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho Toà án.

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án như sau:

Thẩm phán đã xác định đúng về thẩm quyền giải quyết vụ án; về quan hệ pháp luật tranh chấp; về tư cách tham gia tố tụng; về việc thu thập chứng cứ; về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện Kiểm sát; việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự; việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký và đương sự tại phiên tòa đã được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số : 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội , xử: Châp nhân yêu câu khởi kiện của nguyên đơn : Cho chị DKV ly hôn anh NND. Về con chung: Giao con E, sinh ngày 14-10-2012 cho chị DKV trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên hoặc khi có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật; việc cấp dưỡng nuôi con, chị DKV không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, giải quyết. Về tài sản chung: Chị DKV không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét , giải quyết. Vê an phi: Chị DKV phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy đinh cua phap luât.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là anh NND đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên toà lần thứ hai nhưng vắng mặt va không co căn cư xac đinh viêc văng măt của bị đơn là do sư kiên bât kha khang hoặc trở ngại khách quan . Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với bị đơn.

[2] Về quan hê hôn nhân : Chị DKV và anh NND kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện D, thành phố Hải Phòng theo giấy chứng nhận kết hôn số 69/2011 ngày 23-12-2011 nên quan hệ hôn nhân giữa chị DKV và anh NND là hợp pháp.

[3] Về yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: Chị DKV cho rằng, quá trình chung sống giữa chị và anh NND có phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai bên có bât đông về quan điêm , về cach sống nên giữa vợ chồng không có sự yêu thương, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Và trên thực tế, các bên đã sống ly thân và không còn quan tâm, trách nhiệm đối với nhau. Nay, chị DKV yêu cầu giải quyết ly hôn, anh NND vắng mặt tại phiên tòa và không có quan điểm, ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Qua đó đánh giá rằng, anh NND không thiện chí và không có biện pháp gì cụ thể để khắc phục mâu thuẫn giữa vợ và chồng. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị DKV và anh NND đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Việc chị DKV yêu cầu ly hôn với anh NND là có căn cứ, phù hợp với thực tế và phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình nên chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị DKV và anh NND có 01 con là E, sinh ngày 14-10- 2012. Ly hôn, chị DKV có nguyện vọng được nuôi dưỡng con cho đến khi con thành niên. Tại phiên tòa, chị DKV trình bày, hiện tại nghề nghiệp của chị là lao động tự do, thu nhập khoảng 8.000.000 đồng/tháng, có thu nhập ổn định và có nơi ở ổn định nên có khả năng nuôi dưỡng con; anh NND vắng mặt tại phiên tòa và không có quan điểm, ý kiến gì về việc nuôi dưỡng con chung. Trong khi đó cháu Nhật Chi hiện đang sống cùng chị DKV và có nguyện vọng được ở với mẹ. Xét thấy, việc giao con chưa thành niên cho bố hoặc mẹ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục sau khi ly hôn phải bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con. Do vậy, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, giao con E cho chị DKV nuôi dưỡng là phù hợp điều kiện thực tế, phù hợp nguyện vọng của con và phù hợp quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4.1] Về việc cấp dưỡng nuôi con, chị DKV đề nghị hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung giữa các bên.

[5] Vê tai sản chung : Chị DKV không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Chị DKV phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng theo quy định tại Điêu 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số : 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp, theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008467 ngày 02-12-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức t,hmu iễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn 1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị DKV ly hôn anh NND.

2. Về con chung: Giao con E, sinh ngày 14-10-2012 chị DKV trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Ngươi trưc tiêp nuôi con cung cac thanvhiên gia đinh không đươc can trơ ngươi không trưc tiêp nuôi con trong viêc thăm ,ncohmăm soc, nuôi dương, giáo dục con.

Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí: Chị DKV phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008467 ngày 02-12- 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Chị DKV đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 31/03/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:08/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;