Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 25/06/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM KHÊ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 08/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 25 tháng 6 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 62/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 08/2020/QĐST-HNGĐ ngày 04/6/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm 1989

Địa chỉ: Khu 11, (nay là khu Đ), xã Đ, huyện C, tỉnh Phú Thọ (có mặt)

Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm 1990

Địa chỉ: Khu 11, (nay là khu Đ), xã Đ, huyện C, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt)

Người đại diện hợp pháp của anh H: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1957.

Địa chỉ: Khu 11, (nay là khu Đ), xã Đ, huyện C, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các tài liệu bổ sung, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, chị Trần Thị T trình bày: Chị Trần Thị T kết hôn với anh Nguyễn Xuân H ngày 20/11/2015, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đồ, huyện C, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống chung với gia đình anh H. Qúa trình chung sống vợ chồng hòa thuận được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chị T cho rằng vợ chồng không hợp nhau. Chị và anh H đã sống ly thân kể từ tháng 11/2015 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Ngoài ra, chị T còn trình bày, chị có biết anh H bị bệnh tâm thần, đã có kết luận giám định pháp y của cơ quan chức năng từ năm 2010. Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh H. Chị không đề nghị Tòa án tuyên bố anh H mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Người đại diện theo pháp luật cho anh Nguyễn Xuân H – bà Nguyễn Thị L (mẹ đẻ anh H) trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân của chị Trần Thị T và anh Nguyễn Xuân H: chị T và anh H (con trai bà) kết hôn năm 2015. Anh chị sống chung được một thời gian ngắn khoảng vài tháng thì chị T bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ đầu năm 2016 cho đến nay. Nay chị T xin ly hôn, quan điểm của gia đình bà nếu anh chị không chung sống được với nhau thì bà cũng đồng ý để anh chị ly hôn. Anh H vẫn đang sinh sống cùng gia đình bà, ngày đi làm thuê đến tối mới về. Anh H bị bệnh tâm thần từ nhỏ, đã có kết luận giám định tâm thần. Gia đình bà không đề nghị Tòa án tuyên bố anh H mất năng lực hành vi dân sự hay hạn chế năng lực hành vi dân sự. Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bà có thông báo cho anh H về việc chị T xin ly hôn cũng như chuyển các giấy báo, thông báo của Tòa án cho anh H nhưng anh H có đến tòa án để làm việc không thì bà không biết, còn gia đình bà không đưa anh H đến Tòa án để làm việc theo giấy báo được. Bà được biết anh H có quan điểm không đồng ý ly hôn với chị T.

-Về con chung, tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản, công sức: Không đề nghị Tòa án giải quyết Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Khê phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký Tòa án và của HĐXX, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa đã tiến hành đúng thủ tục tố tụng và quy định của Pháp luật.

- Về nội dung vụ án:

+ Quan hệ hôn nhân: Đề nghị HĐXX xem xét cho chị T ly hôn anh H vì anh chị đã mâu thuẫn trong thời gian dài, đã sống ly thân nhau; mục đích hôn nhân của chị T và anh H không đạt được. Anh H bị bệnh tâm thần trước khi kết hôn. Tuy nhiên tại thời điểm đăng kí kết hôn, anh H không bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, hôn nhân hôn nhân giữa chị T và anh H là hợp pháp.

+ Về con chung, tài sản chung, công nợ, công sức: không xem xét giải quyết.

+ Về án phí: chị T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của Pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên toà. Trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ, lời trình bày của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn giữa chị Trần Thị T và anh Nguyễn Xuân H là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Chị T và anh H đều có nơi cư trú tại xã Đ, huyện C, tỉnh Phú Thọ nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê theo quy định tại khoản 1 điều 28, khoản 1 điều 35 và khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng theo đúng quy định của pháp luật.

Anh H (do bà L đại diện hợp pháp) đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên HĐXX căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Pháp luật.

[2]. Về nội dung vụ án:

* Về quan hệ hôn nhân, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Chị Trần Thị T và anh Nguyễn Xuân H tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện C, tỉnh Phú Thọ ngày 20/11/2015. Mặc dù anh H bị tâm thần, ngày 11/11/2010, Tổ chức giám định pháp y tâm thần thuộc Sở y tế Phú Thọ đã có kết luận giám định sức khỏe tâm thần nhưng tại thời điểm đăng ký kết hôn, anh H chưa được Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Chị T biết anh H bị bệnh tâm thần nhưng vẫn tự nguyện đồng ý kết hôn với anh H. Vì vậy, việc chị T và anh H đăng kí kết hôn không vi phạm điều kiện cấm kết hôn được quy định tại Điều 8 Luật hôn nhân gia đình, là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau. Hiện chị chị T và anh H đã sống ly thân.

Qua việc xác minh ý kiến của Chính quyền địa phương cũng như Hội phụ nữ xã Đ, Cẩm Khê nơi vợ chồng chị T anh H sinh sống có xác định: địa phương không nắm bắt được nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng của chị T anh H. Địa phương không tiến hành hòa giải do các bên không đề nghị địa phương hòa giải ở cơ sở. Tại thời điểm chị T, anh H đăng kí kết hôn, anh chị không cung cấp các giấy tờ liên quan đến bệnh của anh H cũng như không thông tin gì cho chính quyền địa phương. Vì vậy UBND xã Đ đã căn cứ quy định của Pháp luật để thực hiện việc đăng ký kết hôn cho anh H chị T và xác định đó là hôn nhân hợp pháp. Chính quyền địa phương đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của phụ nữ.

Tòa án đã thực hiện báo gọi anh H đến Tòa án để giải quyết việc chị T xin ly hôn nhiều lần nhưng anh H không đến Tòa án để trình bày quan điểm của mình. Bà L (là mẹ đẻ - người đại diện hợp pháp cho anh H) đã trình bày, bà đã nhận các giấy báo của Tòa án và thông báo đầy đủ các văn bản của Tòa án cho anh H nhưng lý do vì sao anh H không đồng ý đến Tòa án làm việc thì bà không nắm rõ. Bà cũng cho biết anh H và chị T đã ly thân nhau từ năm 2015 đến nay, anh H vẫn có nguyện vọng xin đoàn tụ với chị T. Như vậy, xác định tình cảm vợ chồng chị T anh H không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc chị T xin ly hôn anh H là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Cần chấp nhận xử cho chị Trần Thị T được ly hôn anh Nguyễn Xuân H.

* Về con chung: Chị T và bà L (người đại diện hợp pháp của anh H) xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

* Về tài sản chung, công nợ, công sức: Chị T không đề nghị Tòa án giải quyết. Quá trình giải quyết vụ án, anh H không đến Tòa án để làm việc nên chưa có lời khai của anh H về các nội dung này. Vì vậy HĐXX không xem xét giải quyết về con chung, tài sản, công nợ, công sức trong vụ án này.

[3]. Về án phí: chị Trần Thị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị T được ly hôn anh Nguyễn Xuân H.

2. Về án phí: Chị Trần Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003542 ngày 28/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cẩm Khê. Chị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị T có mặt có quyền kháng cáo; anh H và bà Loan (người đại diện hợp pháp cho anh H) vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

365
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 25/06/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:08/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Khê - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;