Bản án 08/2019/HS-ST ngày 24/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 08/2019/HS-ST NGÀY 24/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 01/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2019/QĐXXST-HS ngày 10/01/2019, đối với bị cáo:

TRẦN MẠNH T, sinh ngày 25/10/1969, tại Tuyên Quang. Nơi cư trú: Tổ 01, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; con ông Trần Xuân V và bà Trần Thị M (đều đã chết); có vợ là Nguyễn Thị Đoan Tr (đã chết) và 02 con (lớn sinh năm 1989, nhỏ sinh năm 1996); tiền án: Ngày 16/05/2016, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt 02 năm tù, về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (ra trại ngày 07/10/2017); tiền sự: Ngày 31/08/2018, UBND phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại phường thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; nhân thân: Ngày 29/09/2003, Tòa án nhân dân thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 15 tháng tù về tội sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 29/6/2005, Tòa án nhân dân thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 27 tháng tù về tội sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/10/2018, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ, ngày 29/10/2018, bị cáo Trần Mạnh T (là người nghiện ma túy, đã có 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy), đi xe ôm chở khách từ Tuyên Quang sang tỉnh Thái Nguyên. Khi bị cáo chở khách đến Bến xe khách Thái Nguyên, bị cáo đi vào trong Bến xe mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Bị cáo gặp và hỏi mua được 01 gói Heroine được gói bằng giấy bạc màu vàng của một người đàn ông (không biết tên tuổi, địa chỉ) với số tiền 100.000 đồng. Bị cáo đến hiệu thuốc tân dược gần Bến xe khách Thái Nguyên mua kim tiêm, sau đó vào nhà vệ sinh trong bến xe lấy một ít Heroine vừa mua được ra sử dụng hình thức tiêm chích vào cơ thể. Số Heroine còn lại bị cáo cất giấu vào túi quần, điều khiển xe mô tô về nhà. Ngày hôm sau (30/10/2018), bị cáo đem số Heroine còn lại đi tìm chỗ vắng người để sử dụng. Khoảng 09 giờ 30 phút khi bị cáo đi đến khu vực tổ 35, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, thì bị Tổ công tác Công an phường T, thành phố T phát hiện, bắt quả tang, bị cáo tự giác giao nộp 01 gói nhỏ Heroine đang cất giấu trong người. Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối bị cáo, kết quả dương tính.

Tại Kết luận giám định số 475/GĐKTHS ngày 02/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật thu giữ của Trần Mạnh T gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, số thứ tự 09 thuộc danh mục IA Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018; khối lượng 0,083g (không phẩy không tám ba gam).

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 05/CT-VKSTP ngày 02 tháng 01 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Trần Mạnh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Mạnh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Mạnh T từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Ngoài ra Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; tịch thu tiêu hủy số Heroine đã thu giữ của bị cáo; trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động đã thu giữ; tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Trần Mạnh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận tội, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định số 475/GĐKTHS ngày 02/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Mạnh T tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ; kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 09 giờ 30 phút ngày 30/10/2018, tại tổ 35, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Trần Mạnh T (đã có 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy) đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,083g (không phẩy không tám ba gam) Heroine (là chất ma túy, số thứ tự 09 thuộc danh mục IA nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018), mục đích để sử dụng.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách n hiệm hình sự, có hành vi cất giữ bất hợp pháp 0,083g Heroine mục đích để sử dụng; trước khi thực hiện hành vi này, bị cáo đã có 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xoá án tích; hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý , xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Do vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo có bố đẻ là ông Trần Xuân V được thưởng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng ba và mẹ đẻ là bà Trần Thị M được thưởng Huân chương Kháng chiến hạng ba, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trước khi phạm tội, bị cáo có 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xoá án tích, tuy nhiên tình tiết này đã được sử dụng làm tình tiết định tội nên bị cáo không phải chịu thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố; bị cáo có nhân thân xấu (đã 03 lần bị Toà án xét xử và 01 lần bị xử phạt hành chính đều về hành vi liên quan đến ma tuý) do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng Heroine mà bị cáo tàng trữ cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập thường xuyên; không có tài sản gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang.

[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 29/10/2018 của bị cáo, ngày 15/11/2018 Công an phường Tân Quang đã xử phạt hành chính bằng hình thức phạt cảnh cáo; đối với người đàn ông, theo bị cáo khai nhận là người bán Heroine cho bị cáo tại khu vực bến xe khách Thái Nguyên, do không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng: Đối với số Heroine còn lại (sau khi giám định) đã thu giữ của bị cáo được niêm phong trong 01 phong bì, là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu MOBELL vỏ màu đen, đã sử dụng, 01 sim viettel là vật chứng của vụ án, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ lại để đảm bảo việc thi hành án

[8] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Trần Mạnh T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Trần Mạnh T 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 30/10/2018.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

-Tịch thu tiêu huỷ 0,063g (không phẩy không sáu ba gam) Heroine được niêm phong trong 01 (một) bì giấy dán kín còn nguyên vẹn, mặt sau trên các mép dán có chữ ký của Trần Mạnh T và các thành phần tham gia niêm phong cùng 05 (năm) hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tuyên Quang.

- Trả lại cho bị cáo Trần Mạnh T 01 điện thoại di động nhãn hiệu MOBELL vỏ màu đen, đã sử dụng, 01 sim viettel, nhưng tạm giữ lại để đảm bảo việc thi hành án.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 10/01/2019.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Mạnh T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 08/2019/HS-ST ngày 24/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:08/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;