TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 08/2019/HNGĐ-ST NGÀY 02/04/2019 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 02 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 445/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2018 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2019/QĐXX-ST ngày 25 tháng 02 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2019/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Trang Thị Mỹ D, sinh năm 1986 (có mặt); Nơi ĐKHKTT: số BH, HBT, Phường H, thành phố BT, tỉnh Bến Tre; Nơi cư trú: Ấp NP, xã HN, huyện CL, tỉnh Bến Tre;
* Bị đơn: Ông Phạm Minh H, sinh năm 1973 (vắng mặt); Nơi cư trú: số BH, HBT, Phường H, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, biên bản hòa giải cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trang Thị Mỹ D trình bày :
Bà và ông Phạm Minh H kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường H, thành phố BT, tỉnh Bến Tre vào ngày 19/02/2013. Hôn nhân do tự nguyện, sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng trong thời gian đầu thì hạnh phúc, nhưng sau đó thi phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bà phát hiện ông H ham chơi cờ bạc, số đề, cá độ đá banh do chủ nợ đến đòi tiền nợ nhiều lần nên bà biết. Bà xin ông H cho con đi học, bà đi làm kiếm tiền nhưng ông H không cho. Ông H trước khi cưới bà có vợ và 02 con nhưng đã ly hôn, nay ông H đưa 02 đứa con riêng về sống chung gia đình nên kinh tế ngày càng khó khăn. Ngoài ra, ông H còn uống rượu mỗi ngày nên dẫn đến vợ chồng cãi vã nhau thường xuyên. Vợ chồng bà đã ly thân với nhau từ tháng 4/2018, bà đem con về nhà ngoại sống cho đến nay. Hiện tại, bà xác định không còn tình cảm với ông H nên yêu cầu xin được ly hôn.
Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Phạm Ngọc Thanh V, sinh ngày 05/8/2014. Sau khi khi hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: không có;
Ông Phạm Minh H được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn không đến Tòa án nên ông H không có lời trình bày.
Đại diện Viện kiểm sát nhân thành phố BT, tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa cũng như việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng theo đúng quy định pháp luật. Riêng bị đơn không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án đến tham gia phiên hòa giải cũng như xét xử. Về quan điểm giải quyết vụ án thấy rằng: Bà D và ông H kết hôn và đăng ký kết hôn với nhau hợp pháp. Mâu thuẫn giữa bà D và ông H thực tế đã xảy ra, ông H thường xuyên uống rượu, chơi đề không lo lắng, chăm sóc cho vợ con dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng, mặc dù có hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng không có kết quả. Xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng bà D, ông H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của bà D. Vợ chồng có 01 con chung tên Phạm Ngọc Thanh V, sinh ngày 05/8/2014, đề nghị sau khi ly hôn bà D được tiếp tục nuôi con chung, ghi nhận bà D không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. về tài sản chung và nợ chung không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét đây là vụ án xin ly hôn, bị đơn hiện cư trú tại Phường H, thành phố BT nên căn cứ Điều 28 và Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre là có căn cứ, đứng quy định pháp luật.
[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre đã tống đạt thông báo hòa giải và công bố chứng cứ nhiều lần cho ông H nhưng ông H vẫn không đến nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án nhân dân thành phố BT đã đưa vụ án ra xét xử vào ngày 14/3/2019 nhưng ông H vắng mặt, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nên Tòa án hoãn phiên tòa. Ngoài ra, Tòa án nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre cũng đã tống đạt Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2019/QĐST-HNGĐ ngày 14/3/2019 để triệu tập cho ông H tham gia phiên tòa lần thứ 2 nhưng ông H vẫn cố tình vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Phạm Minh H là đúng quy định pháp luật.
[3] Bà Trang Thị Mỹ D và ông Phạm Minh H kết hôn và có đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân Phường H, thành phố BT, tỉnh Bến Tre ngày 19/02/2013 nên được xem là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc nhưng sau đó thi phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo bà D trình bày là do ông H ham chơi cờ bạc, số đề, cá độ đá banh, bị đòi nợ nhiều lần. Ông H có 02 đứa con riêng sống chung gia đình nên kinh tế gia đình ngày càng khó khăn nhưng ông H không cho bà đi làm, không cho con đi học trong khi ông H đi làm không đưa tiền cho vợ. Ngoài ra ông H còn thường xuyên uống rượu mỗi ngày nên dẫn đến vợ chồng cãi vã nhau. Vợ chồng bà đã ly thân với nhau từ tháng 4/2018, bà đem con về nhà ngoại sống đến nay. Hiện tại, bà đã đi làm và cho con đi học, bà xác định không còn tình cảm với ông H nên yêu cầu ly hôn với ông H.
[4] Xét thấy mâu thuẫn giữa bà D và ông H thực tế đã xảy ra. Qua xác minh tình trạng mâu thuẫn trong hôn nhân của vợ chồng bà D và ông H tại nơi cư trú, Tổ phó Tổ 4, Khu phố 3, Phường 2, thành phố BT, bà Nguyễn Thị Thanh Nga cho biết: bà có nghe giữa bà D với ông H cự cãi nhau, còn nguyên nhân cự cãi thì bà không rõ, tuy nhiên bà D không còn sống chung với ông H khoảng 01 năm nay;
Tòa án đã mời ông H đến hòa giải nhiều lần nhưng ông vẫn không đến hòa giải, điều này chứng tỏ ông H có thái độ bỏ mặc và không quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân của vợ chồng ông. Vì vậy, xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng ông H với bà D đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cầu xin ly hôn của bà D đối với ông H là có căn cứ nên Tòa án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà D.
[5] Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Phạm Ngọc Thanh Vy, sinh ngày 05/8/2014. Xét thấy hiện nay cháu Vy sống với mẹ và đã được đi học nên sau khi ly hôn Hội đồng xét xử giao con cho bà D được tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc là phù hợp. Ghi nhận bà D không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung.
[6] Về tài sản chung: Bà D khai không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về nợ chung: Bà D khai không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000(Ba trăm nghìn) đồng bà Trang Thị Mỹ D phải nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ các Điều 28, 35 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Áp dụng Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Trang Thị Mỹ D cụ thể tuyên:
- Về hôn nhân: Bà Trang Thị Mỹ D được ly hôn ông Phạm Minh H.
- Về con chung: Có 01 con chung tên Phạm Ngọc Thanh V, sinh ngày 05/8/2014. Sau khi ly hôn, bà Trang Thị Mỹ D được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung Phạm Ngọc Thanh V. Ghi nhận bà Trang Thị Mỹ D không yêu cầu ông Phạm Minh H cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông Phạm Minh H được được quyền đến thăm, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như việc cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Bà Trang Thị Mỹ D khai không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Về nợ chung: Bà Trang Thị Mỹ D khai không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000(Ba trăm nghìn) đồng, bà Trang Thị Mỹ D phải nộp nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà bà Trang Thị Mỹ D đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0021739 ngày 30/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố BT, tỉnh Bến Tre.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Trong thời hạn 15(mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bà Trang Thị Mỹ D được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Ông Phạm Minh H vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm được quyền kháng cáo trong thời hạn 15(mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Bản án 08/2019/HNGĐ-ST ngày 02/04/2019 về xin ly hôn
Số hiệu: | 08/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 02/04/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về