TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 08/2019/DSST NGÀY 21/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 11/2019/TLST-DS ngày 12/4/2019, về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2019/QĐXXST-DS ngày 14 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2019/QĐDS-ST ngày 05/11/2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng N; địa chỉ: 02 LH, phường TC, quận BĐ, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Ngọc K, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên.
Người được ủy quyền khởi kiện và tham gia tố tụng: Ông Hoàng Văn L, chức vụ: Giám đốc Ngân hàng N - Chi nhánh huyện K.
(Theo Quyết định về việc ủy quyền thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng và thi hành án số 510/QĐ-HĐTV-PC ngày 19/6/2014 của Ngân hàng N).
Ông Hoàng Văn L ủy quyền lại cho bà Đoàn Thị Như H, chức vụ: Phó Giám đốc Ngân hàng N - Chi nhánh huyện K. Bà H có mặt.
(Theo Giấy ủy quyền lại số 03/2019/NHNoKCR-UQ ngày 17/4/2019 của Ngân hàng N - Chi nhánh huyện K).
2. Bị đơn: Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1987.
Địa chỉ: làng H, xã Y, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lý Thị L, sinh năm 1991.
Địa chỉ: làng H, xã Y, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/4/2019 và ý kiến tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn trình bày:
Ngân hàng N với anh Hoàng Văn T ký kết hợp đồng tín dụng số 160113.07/HĐTD ngày 13/01/2016 và tại giấy nhận nợ số 02/GNNKBCĐXGN ngày 21/9/2016 kèm theo hợp đồng, theo đó Ngân hàng N cho anh Hoàng Văn T và chị Lý Thị L vay số tiền 100.000.000 đồng, với lãi suất vay 11,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn 150% lãi suất cho vay được ghi trên giấy nhận nợ. Thời hạn vay là 12 tháng, kể từ ngày 21/9/2016 đến ngày 21/9/2017; phương thức trả lãi 06 tháng/kỳ. Đã đến phân kỳ trả nợ gốc và lãi nhưng anh T và chị L không thực hiện các cam kết trong hợp đồng tín dụng, Ngân hàng N đã nhiều lần thông báo đôn đốc trả nợ nhưng anh T và chị L không thực hiện. Nay Ngân hàng N đề nghị Tòa án giải quyết buộc anh T và chị L trả nợ số tiền gốc 100.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh cho đến khi trả hết số nợ gốc.
Tại biên bản xác minh đề ngày 19/4/2019, Công an xã Yang Nam xác định: Anh Hoàng Văn T và chị Lý Thị L có đăng ký hộ khẩu thường trú tại làng H (nay là làng Lũ), xã Yang Nam, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai. Anh T và chị L sau khi được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; các lần triệu tập đến tham gia phiên toà nhưng anh T và chị L không có mặt nên không có ý kiến trình bày.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kông Chro phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng pháp luật về tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình; bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không chấp hành các quy định của luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng N, buộc anh Hoàng Văn T và chị Lý Thị L phải trả cho Ngân hàng N số nợ gốc 100.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 44.035.417 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bị đơn anh Hoàng Văn T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Lý Thị L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để trình bày ý kiến, hòa giải và tham gia phiên tòa xét xử vụ án nêu trên nhưng đều vắng mặt không lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh T và chị L theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Ngân hàng N ủy quyền cho Chi nhánh huyện K khởi kiện bị đơn anh Hoàng Văn T và xác định chị Lý Thị L là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan để yêu cầu anh T và chị L trả nợ gốc và lãi theo hợp đồng tín dụng số 160113. 07/HĐTD ngày 13/01/2016 và tại giấy nhận nợ số 02/GNNKBCĐXGN ngày 21/9/2016 kèm theo hợp đồng. Do vậy đây là vụ án tranh chấp về hợp đồng tín dụng theo định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về tranh chấp hợp đồng tín dụng:
Ngân hàng N với anh Hoàng Văn T ký hợp đồng tín dụng số 160113.07/HĐTD ngày 13/01/2016 và tại giấy nhận nợ số 02/GNNKBCĐXGN ngày 21/9/2016 kèm theo hợp đồng. Tại hợp đồng này, chỉ một mình anh Hoàng Văn T đứng ra ký kết hợp đồng tín dụng với Ngân hàng, tuy nhiên tại giấy đề nghị kiêm phương án vay vốn ngày 13/01/2016 cũng như tại Giấy ủy quyền số 01/GUQ ngày 13/01/2016 thì giữa anh T và chị L cam kết vay vốn của Ngân hàng N với số tiền 100.000.000 đồng, với lãi suất vay là 11,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay. Thời hạn vay là 12 tháng, kể từ ngày 21/9/2016 đến ngày 21/9/2017; phân kỳ trả lãi 06 tháng/kỳ.
Như vậy, việc các bên ký hợp đồng hợp đồng tín dụng là hoàn toàn tự nguyện, nội dung và hình thức của các hợp đồng đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật dân sự và các Điều 91 và 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, nên phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên. Ngay sau khi ký kết hợp đồng tín dụng, Ngân hàng đã giải ngân cho anh T và chị L với số tiền 100.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng, đã đến hạn trả lãi định kỳ và gốc nhưng bên vay không trả là vi phạm vào điểm b khoản 6.1 Điều 6 của Hợp đồng tín dụng số 160113.07/HĐTD ngày 13/01/2016 và tại giấy nhận nợ số 02/GNNKBCĐXGN ngày 21/9/2016 mà các bên đã ký kết nên khoản vay trên đã chuyển sang nợ quá hạn kể từ ngày 21/9/2017. Vì vậy, Ngân hàng N yêu cầu anh T và chị L phải liên đới trả nợ gốc và lãi phát sinh là có căn cứ.
Về yêu cầu trả nợ lãi: Xét sự thỏa thuận về mức lãi suất vay của các bên là phù hợp với Điều 11 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Nguyên đơn cung cấp bảng tính lãi phù hợp với chính sách lãi suất của Ngân hàng trong từng thời kỳ, đúng theo quy định tại Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010. Đối chiếu bảng sao kê về lãi suất do nguyên đơn cung cấp thì tính đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 21/11/2019, anh T và chị L còn nợ nguyên đơn số tiền lãi là 44.035.417 đồng như nguyên đơn trình bày là có cơ sở, nên cần chấp nhận.
Như vậy cần buộc anh Hoàng Văn T và chị Lý Thị L phải liên đới trả cho Ngân hàng N nợ gốc là 100.000.000 đồng; nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm (21/11/2019) là 44.035.417 đồng.
[3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N được chấp nhận nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; anh Hoàng Văn T và chị Lý Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với nghĩa vụ trả nợ là 144.035.417 đồng x 5% = 7.201.770 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 266; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 466 và 688 của Bộ luật dân sự 2015;
Căn cứ khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;
Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N. Buộc anh Hoàng Văn T và chị Lý Thị L phải liên đới trả cho Ngân hàng N (thông qua Chi nhánh huyện K) 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) nợ gốc và 44.035.417 đồng nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm (21/11/2019). Tổng cộng là 144.035.417 đồng (Một trăm bốn mươi bốn triệu không trăm ba mươi lăm nghìn bốn trăm mười bảy đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (21/11/2019) anh Hoàng Văn T và chị Lý Thị L còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
2. Về án phí:
- Buộc anh Hoàng Văn T và chị Lý Thị L phải liên đới chịu 7.201.770 đồng (Bảy triệu hai trăm lẻ một nghìn bảy trăm bảy mươi đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Anh T và chị L chưa nộp án phí dân sự sơ thẩm.
- Ngân hàng N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho Ngân hàng N thông qua Chi nhánh huyện K 3.325.000 đồng (Ba triệu ba trăm hai mươi lăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số 0000128 ngày 12/4/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 08/2019/DSST ngày 21/11/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 08/2019/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kông Chro - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 21/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về