Bản án 08/2019/DS-PT ngày 16/04/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 08/2019/DS-PT NGÀY 16/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Q xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 54/2018/TLPT-DS ngày 11 tháng 7 năm 2018 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 10/2018/DS-ST ngày 14 tháng 5 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện P bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 26/2019/QĐ-PT ngày 05 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Vợ chồng ông A, sinh năm 1950 và bà B, sinh năm 1956; Đều có mặt.

Nơi cư trú: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Q.

2. Bị đơn: Vợ chồng ông C, sinh năm 1972 và bà D, sinh năm 1976; Ông C có mặt, bà B vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn Vĩnh Phú, xã N, huyện P, tỉnh Q.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Vợ chồng ông Đoàn Văn Thảo, sinh năm 1967 và bà Trần Thị Trung, sinh năm 1969. Bà Trung ủy quyền cho ông Thảo theo giấy ủy quyền ngày 19/10/2016. Đều vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Q.

4. Người làm chứng:

- Ông Đặng Ngọc Quang, sinh năm 1954. Vắng mặt.

- Ông Đặng Tấn Lục, sinh năm 1957. Vắng mặt.

Đều cư trú tại: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Q.

5. Người kháng cáo: Bị đơn vợ chồng ông C và bà D.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18/7/2016 , tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa nguyên đơn vợ chồng ông A, bà B trình bày: Tháng 10/2014 vợ chồng ông thỏa thuận miệng với vợ chồng bà D về việc mua bán diện tích đất 113,6m2 gn liền ngôi nhà cấp 3 tọa lạc tại thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Q với giá 400.000.000đ. Tháng 11/2014 vợ chồng ông giao cho vợ chồng bà B 240.000.000đ tại nhà vợ chồng ông, không viết giấy tờ giao nhận tiền và không ai chứng kiến, khi nào giao đủ tiền mới viết giấy tờ. Ngày 07/12/2014 vợ chồng ông tiếp tục giao cho vợ chồng bà B 160.000.000đ tại nhà ông, có sự chứng kiến của ông Đặng Tấn Lục, ông Đặng Ngọc Quang (anh rể của bà D), bà B là người trực tiếp viết Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà ở và các bên cùng ký vào giấy này. Hai bên thỏa thuận ngày 07/5/2015 vợ chồng bà B phải giao nhà và đất, nếu không thực hiện đúng thỏa thuận việc giao nhà và đất thì vợ chồng ông C, bà B phải chịu lãi suất 3%/tháng đối với số tiền 400.000.000đ với thời hạn cuối là ngày 07/10/2015, nếu vợ chồng bà B không có điều kiện hoàn trả thì nhà và đất thuộc chủ quyền của vợ chồng ông A. Sau đó vợ chồng ông A rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện tranh chấp “Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất”, khởi kiện về việc tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” và yêu cầu xử lý tài sản nhà, đất ghi trong Giấy chuyển nhượng để đảm bảo thi hành án. Tại phiên tòa vợ chồng ông yêu cầu trả gốc 400.000.000đ và lãi là 1%/tháng tính từ ngày 07/10/2015, đồng thời vợ chồng ông tự nguyện cho vợ chồng bà B 45.000.000đ.

Tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa bị đơn vợ chồng ông C, bà D trình bày:

Năm 2010 vợ chồng ông bà vay của vợ chồng ông A nhiều lần, nhưng do làm ăn thất bại không có khả năng trả nợ nên vợ chồng ông A yêu cầu vợ chồng ông phải viết “Giấy chuyển nhượng nhà đất” để làm tin và phải có trách nhiệm trả nợ, nội dung do ông A đọc cho bà D viết nhưng thực chất là khoản tiền vay. Cụ thể như sau: Năm 2010 vay 50.000.000đ, lãi suất 6%/tháng không viết giấy tờ, chỉ ghi vào sổ theo dõi của bà B số tiền gốc còn lãi thì các bên thỏa thuận miệng và đã trả lãi được 01 năm nhưng không có giấy tờ chứng minh còn nợ gốc thì chưa trả. Năm 2011 vợ chồng ông tiếp tục vay vợ chồng ông A 50.000.000đ nhưng không có giấy tờ (trong số tiền này có khoản nợ tiền lãi khoảng từ 20.000.000đ – 30.000.000đ) với lãi suất 6%/tháng. Vợ chồng ông trả lãi của 02 khoản vay trên đến tháng 4/2014 (ÂL) cũng không có giấy tờ về việc trả lãi. Cuối năm 2014 số tiền nợ lên đến 240.000.000đ (nợ gốc 100.000.000đ, nợ lãi 140.000.000đ), do vợ chồng ông không có khả năng trả nợ nên hai bên gặp nhau trao đổi, làm Giấy chuyển nhượng nhà đất lập ngày 07/12/2014 và vợ chồng ông A đưa thêm cho vợ chồng ông 160.000.000đ, đồng thời vợ chồng ông được ở trong ngôi nhà này 05 tháng, sau 05 tháng thì phải tính lãi 3%/tháng đối với số tiền 400.000.000đ, giao kết giữa hai bên có sự chứng kiến của ông Đặng Tấn Lục, Đặng Ngọc Quang và bà Phan Thị Luyến.

Thc tế vợ chồng ông không đồng ý giao nhà và đất cho vợ chồng ông A, vì Giấy chuyển nhượng chỉ để làm tin, ràng buộc trách nhiệm trả nợ đối với khoản vay và yêu cầu được trả 3.000.000đ/tháng cho đến khi hết số tiền nợ 400.000.000đ và không đồng ý trả lãi phát sinh vì trong 400.000.000đ đã có tiền lãi. Diện tích đất ghi trong Giấy chuyển nhượng ngày 07/12/2014 là vợ chồng ông mua của ông Đoàn Văn Thảo nhưng chưa làm thủ tục sang tên còn nhà do vợ chồng ông xây dựng từ số tiền mượn của người khác .

Ti phiên tòa bị đơn chỉ đồng ý trả gốc 210.000.000đ còn lãi không đồng ý trả và xin trả dần 1.500.000đ/tháng cho đến khi hết nợ.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vợ chồng ông Đoàn Văn Thảo, bà Trần Thị Trung trình bày: Ngun gốc diện tích đất tranh chấp là của ông Đoàn Thơm (cha ruột ông Thảo, chết năm 2008) làm thủ tục tặng cho ông và được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông. Năm 2012 ông có chuyển nhượng cho vợ chồng ông C 113m2 vi giá 5.000.000đ, nhưng không nhận tiền mặt mà nhận các vật dụng điện tử , nên vợ chồng ông không còn liên quan gì về việc khiếu nại của hai bên.

Tại bản án dân sự số 10/2018/DS-ST ngày 14/5/2018 Tòa án nhân dân huyện P quyết định:

Áp dụng khoản 2 Điều 227, khoản 2 Điều 229 BLTTDS; Điều 471, 474 và 476 BLDS 2005; khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 BLDS 2015.

Tuyên xử: Chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Vợ chồng ông C, bà D nợ vợ chồng ông A, bà B tổng số tiền 524.993.000đ (Năm trăm hai mươi bốn triệu chín trăm chín mươi ba nghìn đồng) (Trong đó: tiền vay 400.000.000đ, tiền lãi 124.933.000đ) về khoản tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản”.

Ghi nhận sự tự nguyện của vợ chồng ông A, bà B cho vợ chồng ông C, bà D số tiền 45.000.000đ (Bốn mươi lăm triệu đồng). Buộc vợ chồng ông C, bà D có nghĩa vụ phải trả cho vợ chồng ông A, bà B số tiền 479.933.000đ (Bốn trăm bảy mươi chín triệu chín trăm ba mươi ba nghìn đồng) về khoản tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản”.

Về thế chấp tài sản: Không chấp nhận yêu cầu của vợ chồng ông A, bà B về việc đề nghị Tòa tuyên vợ chồng ông C, bà D phải giao nhà cấp 3 và diện tích đất 113,6m2, tọa lạc tại thôn M, xã N, huyện P, Q vì không có chứng cứ.

Không chấp nhận yêu cầu của bị đơn về đề nghị xử lý vợ chồng ông A, bà B về tội cho vay nặng lãi vì không có căn cứ.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí định giá và thông báo quyền kháng cáo cho các bên đương sự.

Ngày 22/5/2018, bị đơn ông C kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật về tố tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, kết quả tranh luận của đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn vợ chồng C cho rằng lãi suất nguyên đơn tính 6%/tháng là quá cao, bị đơn tiếp tục yêu cầu chuyển cho Cơ quan cảnh sát điều tra để xử lý hình sự. HĐXX phúc thẩm TAND tỉnh Q chấp nhận yêu cầu, quyết định ngừng phiên tòa và chuyển hồ sơ cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện P xem xét dấu hiệu hình sự đối với vợ chồng ông A, bà B. Tại công văn số 226/CSĐT-ĐTTH ngày 22/3/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện P cho rằng hành vi của vợ chồng ông A, bà B không có dấu hiệu của “Tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự” theo quy định tại Điều 201 Bộ luật hình sự năm 2015.

Thấy rằng lời khai của vợ chồng ông C, bà D có mâu thuẫn về số tiền vay, kể cả khoản tiền lãi đã trả cũng như khoản tiền nợ huê chết, nhưng không có tài liệu chứng minh. Tại Giấy chuyển nhượng nhà đất lập ngày 07/12/2014 ghi số tiền 400.000.000đ các bên đã thống nhất tự nguyện xác định đây là số tiền vay, không ai bị ép buộc, nên cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Vợ chồng nguyên đơn ông A, bà B tự nguyện yêu cầu tính lãi 1%/tháng tính từ ngày 07/10/2015 đến ngày xét xử sơ thẩm là có cơ sở. Cấp sơ thẩm buộc bị đơn trả cho nguyên đơn 524.993.000đ (Trong đó: tiền vay 400.000.000đ; tiền lãi tính từ ngày 07/10/2015 đến ngày xét xử sơ thẩm 14/5/2018 là 124.933.000đ) và ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn cho bị đơn 45.000.000đ (Bốn mươi lăm triệu đồng), nên vợ chồng ông C, bà D còn phải trả cho vợ chồng ông A, bà B 479.933.000đ là phù hợp.

Đi với hợp đồng chuyển nhượng nhà gắn liền quyền sử dụng đất ngày 07/12/2014, thực chất là hợp đồng vay các bên không tranh chấp nên không xem xét, cũng như việc yêu cầu xử lý tài sản thế chấp chưa hội đủ điều kiện để chấp nhận như án sơ thẩm.

Từ những viện dẫn như trên cần chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Về án phí: Các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Không chấp nhận kháng cáo của vợ chồng ông C, bà D. Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm .

Áp dụng khoản 2 Điều 227, khoản 2 Điều 229 BLTTDS; Điều 471, 474 và 476 Bộ luật dân sự 2005; khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

Tuyên xử:

Chấp nhận 1 phần yêu cầu của nguyên đơn vợ chồng ông A, bà B theo đơn khởi kiện ngày 18/7/2016.

Buộc vợ chồng ông C, bà D phải trả cho vợ chồng ông A, bà B 479.933.000đ (Bốn trăm bảy mươi chín triệu chín trăm ba mươi ba nghìn đồng) về khoản tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản”.

Không chấp nhận yêu cầu của vợ chồng ông A, bà B về việc đề nghị Tòa xử lý tài sản thế chấp của vợ chồng ông C, bà D là ngôi nhà cấp 3 gắn liền diện tích đất 113,6m2, tọa lạc tại thôn M, xã N, huyện P, Q vì không có chứng cứ.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu người phải thi hành án chưa thi hành xong khoản tiền nói trên thì người phải thi hành án còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Điều 466 BLDS năm 2015.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 147, 148 BLTTDS.

Vợ chồng ông C, bà D phải chịu 11.599.000đ án phí dân sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm, đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm tại biên lai thu tiền số 0008010 ngày 04/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện P, nên còn phải nộp 11.599.000đ.

Vợ chồng ông A, bà B phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu không được chấp nhận. Đã nộp 10.000.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại biên lai thu tiền số 0000126 ngày 03/10/2016 của Chi cục thi hành án dân sự huyện P, nên hoàn lại cho vợ chồng ông A, bà B 9.700.000đ.

3. Ghi nhận sự tự nguyện của vợ chồng ông A, bà B phải chịu các chi phí tố tụng: Định giá tài sản 1.050.000đ; Chi phí khảo sát giá đất tranh chấp theo thị trường 950.000đ; Chi phí chỉnh lý bản đồ địa chính 676.000đ. Nguyên đơn đã nộp đủ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 08/2019/DS-PT ngày 16/04/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:08/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;