TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 08/2018/KDTM-ST NGÀY 22/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THIẾT KẾ - MUA SẮM VẬT TƯ, THIẾT BỊ - THI CÔNG XÂY DỰNG
Vào ngày 22 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 04/2018/TLST-KDTM ngày 14 tháng 09 năm 2018 về tranh chấp “Hợp đồng thiết kế - mua sắm vật tư, thiết bị - thi công xây dựng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2018/QĐXXST-KDTM ngày 12 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần D.
Địa chỉ công ty: Đường M, xã P, huyện B, thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Thanh N - Chức vụ: Giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: Bà Hoàng Thị N, sinhnăm 1984; Nơi cư trú: Đường X, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định (theo văn bản ủy quyền ngày05-9-2018).
- Bị đơn: Công ty Cổ phần X.
Địa chỉ công ty: Đường D, cụm Công nghiệp A, thành phố N, tỉnh NamĐịnh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Đức E – Chức vụ: Cổ đông Côngty Cổ phần X (theo văn bản họp Đại hội đồng cổ đông ngày 10-10-2018).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty Cổ phần M.
Địa chỉ công ty: Đường L, phường C, quận H, thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Qúy V - Chức vụ: Giám đốc.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn P.
Địa chỉ công ty: Đường V, phường Z, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Quốc K - Chức vụ: Giám đốc
Tại phiên tòa: Bà Hoàng Thị N, ông Phạm Đức E có mặt. Ông Vũ Qúy V,ông Nguyễn Quốc K có văn bản xin giải quyết vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Tại đơn khởi kiện nộp ngày 14-9-2018, trong quá trình tham gia tố tụng vàtại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà N trình bày:
Ngày 08-12-2010 giữa Công ty Cổ phần D và Công ty Cổ phần M đã ký kết hợp đồng số 28/2010/KTA-Gas S/QLDA về việc hai bên góp vốn bằng quyền sử dụng đất và bằng tiền để đầu tư xây dựng và khai thác công trình “Trụ sở của chi nhánh Công ty Cổ phần D và Công ty Cổ phần M tại Vũng Tàu”. Trong nội dung hợp đồng hai bên có thỏa thuận Công ty Cổ phần D sẽ là đại diện chủ đầu tư dự án.
Trên cơ sở nội dung hợp đồng số 28/2010/KTA-Gas S/QLDA, ngày 17-01- 2011, Công ty Cổ phần D đã ký Hợp đồng số 01/2011/PVGas D - PVC2/QLDAvề thiết kế - mua sắm vật tư, thiết bị - thi công xây dựng với Liên danh giữa Công ty Cổ phần X và Công ty trách nhiệm hữu hạn P do Công ty Cổ phần X là đơn vịđứng đầu liên danh để thực hiện dự án nêu trên.Sau khi ký hợp đồng số 01/2011/PVGas D - PVC2/QLDA, hai bên đều đãthực hiện đúng những nội dung cam kết trong hợp đồng. Cụ thể:
Công ty trách nhiệm hữu hạn P đã thực hiện xong phần việc thiết kế bản vẽ thi công, lập tổng dự toán dự án và đã được Công ty Cổ phần D thanh toán riêng số tiền tương ứng với phần việc Công ty trách nhiệm hữu hạn P thực hiện.
Công ty Cổ phần X đã thi công xây dựng xong công trình, mua sắm lắp đặt máy móc thiết bị và các bên cũng đã nghiệm thu công trình, quyết toán và thanh lý hợp đồng.
Theo hồ sơ quyết toán thì tổng giá trị quyết toán hợp đồng (sau thẩm tra báo cáo quyết toán dự án hoàn thành) là 58.464.042.521 VNĐ.
Phía Công ty Cổ phần D đã tạm ứng cho liên doanh giữa Công ty Cổ phần X và Công ty trách nhiệm hữu hạn P tổng số tiền là: 64.775.324.372 VNĐ (trong đó trả cho Công ty Cổ phần X là 63.282.808.748 VNĐ và Công ty trách nhiệm hữu hạn P là 1.492.515.624 VNĐ).
Sau khi hết thời hạn bảo hành, Công ty Cổ phần X đã sử dụng số tiền bảo lãnh 1.500.000.000 VNĐ để trả một phần tiền ứng trước cho Công ty Cổ phần D. Như vậy, số tiền mà Công ty Cổ phần X còn phải hoàn trả cho Công ty Cổ phần D theo hồ sơ quyết toán ký kết giữa hai bên là 4.811.281.851 VNĐ (Bốn tỷ tám trăm mười một triệu hai trăm tám mươi mốt nghìn tám trăm năm mươi mốt đồng).
Đã nhiều lần Công ty Cổ phần D yêu cầu Công ty Cổ phần X thanh toán hết công nợ còn lại nhưng Công ty Cổ phần X thông qua các văn bản số 36/XLDK2 ngày 30-11-2015, biên bản đối chiếu công nợ ngày 22-9-2016, ngày 31-12-2016 khất lần và thực tế đến nay vẫn chưa trả số tiền còn nợ nêu trên.
Ngày 22-8-2017, Thanh tra Bộ Xây dựng đã ban hành Kết luận thanh tra số 441/KL-TTr về công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình của Tổngcông ty Y – Công ty Cổ phần tại các dự án thanh tra trong đó có dự án nêu trên.
Trong Kết luận thanh tra đã xác định số tiền nghiệm thu do tính sai tăng khối lượng nghiệm thu một số hạng mục công việc giữa Công ty Cổ phần X và Côngty Cổ phần D là 265.446.128 VNĐ (bao gồm cả các phần việc Công ty Cổ phần Xgiao lại cho nhà thầu phụ thực hiện) và xác định trách nhiệm của việc quyết toánsai tăng này thuộc về nhà thầu thi công và Ban Quản lý dự án.
Đến thời điểm hiện nay, Công ty Cổ phần D xác nhận đã thu hồi số tiền quyết toán sai tăng đối với các nhà thầu phụ của Công ty Cổ phần X là Công ty trách nhiệm hữu hạn G số tiền 21.208.200VNĐ, doanh nghiệp tư nhân P số tiền 24.555.960VNĐ, Công ty trách nhiệm hữu hạn F số tiền 87.604.480 VNĐ và Công ty trách nhiệm hữu hạn U số tiền 13.445.128VNĐ, tổng cộng là146.813.768VNĐ nên Công ty Cổ phần D không có yêu cầu gì đối với các côngty này. Riêng Công ty Cổ phần X chưa thanh toán số tiền quyết toán sai tăng là118.652.360VNĐ cho Công ty Cổ phần D.
Công ty trách nhiệm hữu hạn P đã được Công ty Cổ phần D thanh toán xong toàn bộ số tiền tương ứng với phần việc Công ty trách nhiệm hữu hạn P đã thực hiện trong dự án nên Công ty Cổ phần D không có yêu cầu gì đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn P nữa.
Vì vậy, Công ty Cổ phần D yêu cầu Toà án nhân dân thành phố N xem xét giải quyết buộc:
Công ty Cổ phần X phải trả cho Công ty Cổ phần D số tiền ứng trước vượt quá so với giá trị quyết toán công trình “Trụ sở của chi nhánh Công ty Cổ phần D và Công ty Cổ phần M tại Vũng Tàu” là 4.811.281.851VNĐ và số tiền do thực hiện quyết toán sai tăng là 118.652.360 VNĐ, tổng cộng là 4.929.934.211 VNĐ.
Công ty Cổ phần D không yêu cầu Công ty Cổ phần X phải thanh toán tiền lãi phát sinh kể từ thời điểm Công ty Cổ phần X chậm thanh toán cho đến thời điểm Tòa án xét xử vụ án. Tuy nhiên, sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì Công ty Cổ phần X phải trả lãi suất do chậm thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trong trường hợp Công ty Cổ phần X không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo phán quyết của Tòa án, Công ty Cổ phần D có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành quyết định của Tòa án để thu hồi công nợ cho Công ty Cổ phần D.
Công ty Cổ phần X phải thanh toán các khoản chi phí hợp lý phát sinh liên quan đến việc thu hồi nợ của Công ty Cổ phần D (bao gồm nhưng không giới hạn: chi phí luật sư, chi phí liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm...) (nếu có).
Công ty Cổ phần D không yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn P phải liên đới chịu trách nhiệm cùng với Công ty Cổ phần X trả nợ cho Công ty Cổ phần D.
2. Tại bản tự khai, trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, ngườiđại diện theo pháp luật của bị đơn là ông Phạm Đức E trình bày:
Ông xác nhận địa chỉ Công ty Cổ phần X tại địa chỉ Đường D, cụm Công nghiệp A, thành phố N, tỉnh Nam Định và danh sách cổ đông Công ty gồm 07 người là ông Trương Đình K, ông Đào Quốc T, ông Phạm Đức E, ông Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Thị Thanh M, bà Nguyễn Thị Thanh V và bà Vũ Thị Vân D như trong giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty Cổ phần do Phòng đăng ký kinh doanh của Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Nam Định cấp ngày 27-7-2010 là đúng. Thực tế hiện nay Công ty Cổ phần X không còn hoạt động và địa chỉ Công ty cũng không còn ở đó nữa, Chủ tịch Hội đồng quản trị của Công ty Cổ phần X là ông Trương Đình Khắc đã chết năm 2013, còn ông đã hết hợp đồng được thuê làm giám đốc từ năm 2013, Công ty cũng chưa họp cổ đông nên đến thời điểm nguyên đơn khởi kiện Công ty Cổ phần X không có ai là người đại diện theo pháp luật.
Ngày 10-10-2018, ông cùng với ông Nguyễn Thanh H, ông Đào Quốc T, bà Nguyễn Thị Thanh M, bà Nguyễn Thị Thanh V là các cổ đông của Công ty Cổ phần X đã họp và cử ông là người đại diện theo pháp luật để tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân thành phố N.
Ông xác nhận quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng, nghiệm thu công trình, quyết toán và thanh lý hợp đồng giữa Công ty Cổ phần D với Công ty Cổ phần X như nội dung trình bầy của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ở trên là đúng.
Ngày 22-9-2016 và ngày 31-12-2016, ông với tư cách cổ đông Công ty và là người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần X trong thời gian ký kết và thực hiện hợp đồng số 01/2011/PVGas D - PVC2/QLDA đã ký các biên bản đối chiếu công nợ với đại diện Công ty Cổ phần D. Trong biên bản đối chiếu công nợ Công ty Cổ phần X đã xác nhận còn nợ Công ty Cổ phần D số tiền 4.811.281.851 VNĐ (Bốn tỷ tám trăm mười một triệu hai trăm tám mươi mốt nghìn tám trăm năm mươi mốt đồng) là đúng.
Ông thừa nhận số tiền 118.652.360 VNĐ (Một trăm mười tám triệu sáu trăm năm mươi hai nghìn ba trăm sáu mươi đồng) mà nguyên đơn yêu cầu Công ty Cổ phần X phải trả lại do quyết toán sai tăng là đúng. Nhưng Công ty Cổ phần X chỉ chấp nhận trả lại một nửa số tiền này cho nguyên đơn với lý do đây là lỗi của cả hai bên vì hai bên đã nghiệm thu công trình đưa vào sử dụng từ lâu, thời điểm xây dựng công trình giá thiết bị vật tư biến động liên tục gây sai sót trong tính toán số liệu, nguyên đơn có kỹ sư cùng Ban Quản lý dự án giám sát thi công, cùng thực hiện nghiệm thu thanh quyết toán công trình nhưng không có ý kiến gì. Vì vậy, Công ty Cổ phần X chỉ chấp nhận hoàn trả cho Công ty Cổ phần D một nửa số tiền quyết toán sai tăng là 118.652.360 VNĐ : 2 = 59.326.180 VNĐ.
Ông xác nhận Công ty Cổ phần X sẽ có nghĩa vụ hoàn trả số tiền ứng trước vượt quá so với giá trị quyết toán hợp đồng là 4.811.281.851 VNĐ và một nửa số tiền quyết toán sai tăng là 59.326.180 VNĐ cho Công ty Cổ phần D. Tổng cộng Công ty Cổ phần X còn phải trả lại Công ty Cổ phần D số tiền là 4.811.281.851VNĐ + 59.325.180 VNĐ = 4.870.608.031 VNĐ (Bốn tỷ tám trăm bẩy mươi triệusáu trăm linh tám nghìn không trăm ba mươi mốt đồng).
Đối với yêu cầu trả lãi suất chậm thi hành án sau khi bản án của Tòa án cóhiệu lực pháp luật và chi phí phát sinh liên quan đến việc thu hồi nợ của Công tyCổ phần D thì ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Ông xác nhận Công ty trách nhiệm hữu hạn P đã được Công ty Cổ phần D thanh toán riêng phần việc thi công nên Công ty trách nhiệm hữu hạn P không còn liên quan gì đến vụ án này.
Ông đề nghị Công ty Cổ phần D giảm nợ, gia hạn thanh toán nợ và tạo điều kiện ký kết hợp đồng khác giúp Công ty Cổ phần X có việc làm để có tiền trích trả nợ cho nguyên đơn.
3. Ngày 29-10-2018, Công ty Cổ phần M có văn bản trả lời Tòa án nhân dân thành phố N với nội dung không có bất kỳ yêu cầu hay đề nghị nào khác trong việc Công ty Cổ phần D khởi kiện Công ty Cổ phần X và xin được giải quyết vắng mặt trong toàn bộ vụ án.
4. Tại bản tự khai ông Nguyễn Quốc K là người đại diện theo pháp luật của Công ty trách nhiệm hữu hạn P trình bày quan điểm: Công ty trách nhiệm hữu hạn P ngoài việc thực hiện phần việc thiết kế bản vẽ thi công và lập tổng dự toán thì Công ty trách nhiệm hữu hạn P không tham gia vào phần việc nào khác trong dự án. Công ty Cổ phần D đã thanh toán hết số tiền tương ứng với phần việc Công ty trách nhiệm hữu hạn P thực hiện vì vậy Công ty trách nhiệm hữu hạn P không còn liên quan gì đến vụ án. Công ty trách nhiệm hữu hạn P cũng không có yêu cầu độc lập gì đối với Công ty Cổ phần D và Công ty Cổ phần X và xin được giải quyết vắng mặt trong toàn bộ vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định tham giaphiên tòa có quan điểm:
* Về tố tụng: Tòa án nhân dân thành phố N thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền; Vụ án vẫn còn thời hiệu giải quyết; Những người tiến hành tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự để giải quyết vắng mặt người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần M và người đại diện theo pháp luật của Công ty trách nhiệm hữu hạn P là đúng theo quy định của pháp luật.
* Về nội dung tranh chấp:
Căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, kết quả tranh tụng tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử buộc Công ty Cổ phần X phải trả cho Công ty Cổ phần D4.811.281.851 VNĐ là số tiền ứng trước vượt quá so với giá trị quyết toán côngtrình “Trụ sở của chi nhánh Công ty Cổ phần D và Công ty Cổ phần M tại Vũng Tàu” và số tiền 59.325.180 VNĐ do tính sai tăng khối lượng nghiệm thu một số hạng mục công việc, tổng cộng là 4.870.608.031 VNĐ (Bốn tỷ tám trăm bẩy mươi triệu sáu trăm linh tám nghìn không trăm ba mươi mốt đồng).
Chấp nhận sự tự nguyện của Công ty Cổ phần D không yêu cầu Công ty Cổ phần X phải thanh toán tiền lãi phát sinh kể từ thời điểm Công ty Cổ phần X chậm thanh toán cho đến thời điểm Tòa án xét xử vụ án.
Chấp nhận yêu cầu trả lãi suất do chậm thi hành án theo quy định tại khoản 2Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 của nguyên đơn đối với bị đơn. Không có cơ sở chấp nhận yêu cầu thanh toán các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc thu hồi nợ của Công ty Cổ phần D đối với Công ty Cổ phần X.
Chấp nhận quan điểm đã trình bầy của Công ty Cổ phần M và Công ty tráchnhiệm hữu hạn P.
Không chấp nhận đề nghị giảm nợ, gia hạn thanh toán nợ và tạo điều kiện ký kết hợp đồng khác giúp Công ty Cổ phần X có việc làm để có tiền trích trả nợ cho nguyên đơn của Công ty Cổ phần X.
Công ty Cổ phần D phải nộp án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm đối với phần yêu cầu không được chấp nhận; Công ty Cổ phần X phải nộp án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
1.1. Về tranh chấp được giải quyết trong vụ án:
Nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện xong hợp đồng số 01/2011/PVGas D – PVC2/QLDA ngày 17-01-2011 trước ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực và theo đơn khởi kiện thì Công ty Cổ phần D yêu cầu Công ty Cổ phần X phải hoàn trả số tiền ứng trước vượt quá so với giá trị quyết toán công trình “Trụ sở của chi nhánh Công ty Cổ phần D và Công ty Cổ phần M tại Vũng Tàu” và số tiền quyết toán sai tăng. Do hợp đồng được các pháp nhân có đăng ký kinh doanh kí kết vì mục đích lợi nhuận nên Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp kinh doanh thương mại về Hợp đồng thiết kế - mua sắm vật tư, thiết bị - thi công xây dựng và áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2005 để giải quyết vụ án là đúng theo quy định của điểm c khoản 1 Điều 668 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
1.2. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án:
Tại Điều 11 của điều kiện hợp đồng số 01/2011/PVGas D – PVC2 ngày 17- 01-2011 giữa các bên quy định: “Trường hợp hai bên không giải quyết bằng thương lượng, hòa giải được, việc tranh chấp sẽ được chuyển đến Tòa án để giảiquyết”. Theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của Công ty Cổ phần X, đăng ký thay đổi lần thứ 3 ngày 27-7-2010 thì Công ty Cổ phần X có trụ sở chínhtại địa chỉ: Đường D, cụm Công nghiệp A, thành phố N, tỉnh Nam Định. Do vậy căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
1.3. Về người tham gia tố tụng:
Căn cứ Hợp đồng số 28/2010/KTA-GAS S/QLDA ngày 08-12-2010 về việc hợp tác đầu tư xây dựng và khai thác công trình “Trụ sở của chi nhánh Công ty Cổ phần D và Công ty Cổ phần M tại Vũng Tàu” giữa Công ty Cổ phần D và Công ty Cổ phần M, Hội đồng xét xử xác định Công ty Cổ phần D là nguyên đơn, Công ty Cổ phần M là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Căn cứ hợp đồng số 01/2011/ PVGas D-PVC2/QLDA ngày 17-01-2011 giữa Công ty Cổ phần D với Công ty Cổ phần X và hợp đồng liên doanh số 01/HĐ/PVC 2/VT01 ngày 06-01-2011 giữa Công ty Cổ phần X với Công ty trách nhiệm hữu hạn P, Hội đồng xét xử xác định Công ty Cổ phần X là bị đơn, Công ty trách nhiệm hữu hạn P là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Căn cứ Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông ngày 10-10-2018, các cổ đông Công ty Cổ phần X đã cử ông Phạm Đức E làm người đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng tại Tòa án. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định ông Phạm Đức E là người đại diện theo pháp luật của bị đơn trong vụ án.
Người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần M và người đại diện theo pháp luật của Công ty trách nhiệm hữu hạn P đã có văn bản xin giải quyết vắng mặt hợp lệ nên Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt họ là đúng quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung tranh chấp trong vụ án:
2.1 Về yêu cầu đòi nợ của nguyên đơn:
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở xác định: Ngày 17-01- 2011, Công ty Cổ phần D đã ký Hợp đồng số 01/2011/PVGas D – PVC2/QLDA về thiết kế - mua sắm vật tư, thiết bị - thi công xây dựng với Liên danh giữa Công ty Cổ phần X và Công ty trách nhiệm hữu hạn P do Công ty Cổ phần X là đơn vị đứng đầu liên danh để thực hiện dự án “Trụ sở của chi nhánh Công ty Cổ phần D và Công ty Cổ phần M tại Vũng Tàu”. Xét thấy hợp đồng số 01/2011/ PVGas D – PVC2/QLDA do người đại diện theo pháp luật của tất cả các bên ký, nội dung của hợp đồng có đầy đủ các điều khoản theo quy định, không vi phạm điều cấm của pháp luật nên hợp đồng này là hợp pháp và có hiệu lực thực hiện.
Sau khi ký hợp đồng, về phía Công ty Cổ phần D đã nhiều lần tạm ứng tiền cho Liên danh giữa Công ty Cổ phần X và Công ty trách nhiệm hữu hạn P với tổng số tiền là 64.775.324.372 VNĐ (trong đó trả cho Công ty Cổ phần X là 63.282.808.748 VNĐ và Công ty trách nhiệm hữu hạn P là 1.492.515.624 VNĐ).
Công trình cũng đã được Công ty Cổ phần X thi công, mua sắm lắp đặt thiết bị máy móc, bảo hành với tổng giá trị hợp đồng đã thực hiện là 57.471.526.897 VNĐ. Các bên đã tiến hành nghiệm thu, bàn giao, đưa công trình vào sử dụng và không có khiếu nại gì về tiến độ, chất lượng công trình. Vì vậy, Tòa án không xem xét về những vấn đề này mà chỉ xem xét tranh chấp giữa hai bên trong việc thanh quyết toán tiền.
Về số nợ gốc: Căn cứ vào Công văn số 36/XLDK2 ngày 30-11-2015 của Công ty Cổ phần X gửi tới Công ty Cổ phần D, Biên bản họp ngày 22-9-2016, Biên bản đối chiếu công nợ ngày 31-12-2016, bản tự khai của những người đại diện cho nguyên đơn và bị đơn, biên bản hòa giải giữa hai bên và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để buộc Công ty Cổ phần X phải hoàn trả số tiền ứng trước vượt quá so với giá trị quyết toán công trình “Trụ sở của chi nhánh Công ty Cổ phần D và Công ty Cổ phần M tại Vũng Tàu” là 4.811.281.851 VNĐ (Bốn tỷ tám trăm mười một triệu hai trăm tám mươi mốt nghìn tám trăm năm mươi mốt đồng) cho Công ty Cổ phần D.
Về việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại số tiền 118.652.360 VNĐ do tính sai tăng khối lượng nghiệm thu một số hạng mục công việc: Căn cứ các tài liệu chứng cứ do các đương sự giao nộp cho Tòa án cho thấy tại điểm 6 Điều 1, Điều 14, Điều 15 của điều kiện hợp đồng số 01/2011/PVGasD-PVC2, Biên bản nghiệm thu công trình, Quyết định về việc phê duyệt quyết toán dự án, Biên bản thanh lý hợp đồng đã thể hiện Công ty Cổ phần D là bên trực tiếp quản lý dự án, có kỹ sư kiểm tra giám sát vật tư máy móc thiết bị của bị đơn, có kế toán tài chính cùng bị đơn nghiệm thu, bàn giao đưa công trình vào sử dụng, quyết toán công trình, thanh lý hợp đồng nhưng không có ý kiến khiếu nại thắc mắc gì đối với bị đơn; Tại bản tự khai, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa tuy phía bị đơn cho rằng phía nguyên đơn cũng có lỗi trong việc này nhưng thừa nhận Công ty Cổ phần X đã quyết toán sai tăng số tiền 118.652.360 VNĐ là đúng. Điều đó chứng tỏ Kết luận Thanh tra số 441/KL-TTr ngày 22-8-2017 của Thanh tra Bộ Xây dựng đã xác định trách nhiệm của việc quyết toán sai tăng này thuộc về nhà thầu thi công và Ban Quản lý dự án là có cơ sở. Vì vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định hai bên đều có lỗi và buộc mỗi bên phải chịu trách nhiệm một nửa số tiền này. Cụ thể mỗi bên chịu 118.652.360 VNĐ : 2 = 59.326.180 VNĐ (Năm mươi chín triệu ba trăm hai mươi sáu nghìn một trăm tám mươi đồng).
Tổng cộng Công ty Cổ phần X phải trả lại số tiền 4.870.608.031 VNĐ (Bốn tỷ tám trăm bẩy mươi triệu sáu trăm linh tám nghìn không trăm ba mươi mốt đồng) cho Công ty Cổ phần D.
2.2 Về các yêu cầu khác của đương sự:
2.2.1 Do Công ty Cổ phần D không yêu cầu Công ty Cổ phần X phải thanh toán tiền lãi phát sinh kể từ thời điểm Công ty Cổ phần X chậm thanh toán cho đến thời điểm Tòa án xét xử vụ án. Yêu cầu này của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử sẽ chấp nhận.
2.2.2 Công ty Cổ phần D yêu cầu Tòa án buộc Công ty Cổ phần X phải chịu nghĩa vụ trả lãi suất chậm thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Yêu cầu này của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử sẽ chấp nhận.
2.2.3 Công ty Cổ phần D yêu cầu Công ty Cổ phần X phải thanh toán các khoản chi phí hợp lý phát sinh liên quan đến việc thu hồi nợ của Công ty Cổ phần D (bao gồm nhưng không giới hạn: chi phí luật sư, chi phí liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm... (nếu có), tuy nhiên phía nguyên đơn chỉ nêu yêu cầu chung chung, không cụ thể nên Hội đồng xét xử không có cơ sở giải quyết yêu cầu này.
2.2.4 Đối với việc nguyên đơn không yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn P phải liên đới chịu trách nhiệm cùng với Công ty Cổ phần X trả nợ cho nguyên đơn: Tại bảng giá trị quyết toán hợp đồng của biên bản bản thanh lý hợp đồng ngày 10-10-2014 giữa Công ty Cổ phần D với liên doanh Công ty Cổ phần X và Công ty trách nhiệm hữu hạn P thể hiện Công ty Cổ phần D đã thanh toán riêng số tiền 1.492.515.624 VNĐ cho Công ty trách nhiệm hữu hạn P và thanh toán 63.282.808.748 VNĐ cho Công ty Cổ phần X. Điều đó chứng tỏ việc phía nguyên đơn và bị đơn đều xác nhận Công ty trách nhiệm hữu hạn P không còn liên quan gì đến vụ án là đúng nên Hội đồng xét xử sẽ chấp nhận yêu cầu này.
2.2.5 Đối với Công ty Cổ phần M: Tuy trong hợp đồng số 28/2010/KTA-Gas S/QLDA ngày 08-12-2010 có nội dung hai bên góp vốn bằng quyền sử dụng đất và bằng tiền để thực hiện dự án nhưng ngày 29-10-2018 Công ty Cổ phần M có văn bản thể hiện quan điểm không có bất kỳ yêu cầu hay đề nghị nào khác trong việc Công ty Cổ phần D khởi kiện Công ty Cổ phần X nên Hội đồng xét xử sẽ chấp nhận quan điểm này và buộc Công ty Cổ phần X phải trả nợ cho Công ty Cổ phần D.
2.2.6 Về đề nghị giảm nợ, gia hạn thời gian trả nợ và tạo điều kiện ký kết hợp đồng khác giúp Công ty Cổ phần X có việc làm để có tiền trích trả nợ cho nguyên đơn của bị đơn: Do phía nguyên đơn không đồng ý với đề nghị này của bị đơn nên Hội đồng xét xử không có cơ sở giải quyết đề nghị này.
[3] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV thì án phí trong vụ án sẽ được quyết định cụ thể như sau:
Do yêu cầu số tiền 4.811.281.851VNĐ (Bốn tỷ tám trăm mười một triệu hai trăm tám mươi mốt nghìn tám trăm năm mươi mốt đồng) được chấp nhận nên Công ty Cổ phần D không phải nộp án phí kinh doanh thương mại đối với số tiền này.
Do yêu cầu số tiền 118.652.360 VNĐ (Một trăm mười tám triệu sáu trăm năm mươi hai nghìn ba trăm sáu mươi đồng) chỉ được được chấp nhận một nửa nên Công ty Cổ phần D phải nộp án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm tương ứng với số tiền 59.326.180 VNĐ không được chấp nhận là 3.000.000 VNĐ (Ba triệu đồng). Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí Công ty Cổ phần D đã nộp khi khởi kiện.
Công ty Cổ phần X có nghĩa vụ trả nợ nên sẽ phải nộp án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm tương ứng với số tiền phải trả 4.870.608.031 VNĐ (Bốn tỷ tám trăm bẩy mươi triệu sáu trăm linh tám nghìn không trăm ba mươi mốt đồng) là 112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tài sản tranh chấp vượt 4.000.000.000 đồng. Cụ thể là 112.000.000 đồng + (0,1% x 870.608.031 đồng) =112.870.608 VNĐ (Một trăm mười hai triệu tám trăm bẩy mươi nghìn sáu trămlinh tám đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 302, Điều 308, Điều 401, Điều 402, Điều 406, Điều 518,Điều 519 của Bộ luật Dân sự năm 2005;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Căn cứ khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQQH ngày 30 tháng 12 năm2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần D.
Buộc Công ty Cổ phần X phải trả cho Công ty Cổ phần D: 4.811.281.851 VNĐ là số tiền ứng trước vượt quá so với giá trị quyết toán công trình “Trụ sở của chi nhánh Công ty Cổ phần D và Công ty Cổ phần M tại Vũng Tàu”.
Buộc Công ty Cổ phần X phải trả cho Công ty Cổ phần D: 59.326.180 VNĐ là số tiền do tính sai tăng khối lượng nghiệm thu một số hạng mục công việc.
Tổng cộng buộc Công ty Cổ phần X phải trả cho Công ty Cổ phần D số tiề4.870.608.031 VNĐ (Bốn tỷ tám trăm bẩy mươi triệu sáu trăm linh tám nghìn không trăm ba mươi mốt đồng).
2. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày Công ty Cổ phần D có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng Công ty Cổ phần X còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Công ty Cổ phần D phải nộp 3.000.000 VNĐ (Ba triệu đồng). Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 56.000.000 VNĐ (Năm mươi sáu triệu đồng) Công ty Cổ phần D đã nộp theo biên lai số 0000268 ngày 14-9-2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N, tỉnh Nam Định. Trả lại cho Công ty Cổ phần D số tiền 53.000.000 VNĐ (Năm mươi ba triệu đồng).
Công ty Cổ phần X phải nộp 112.870.608 VNĐ (Một trăm mười hai triệutám trăm bẩy mươi nghìn sáu trăm linh tám đồng).
4. Quyền kháng cáo:
Công ty Cổ phần D, bà Hoàng Thị N, Công ty Cổ phần X, ông Phạm Đức E có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Công ty trách nhiệm hữu hạn P, Công ty Cổ phần M có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì Công ty Cổ phần phân D và Công ty Cổ phần X có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự./.
Bản án 08/2018/KDTM-ST ngày 22/11/2018 về tranh chấp hợp đồng thiết kế - mua sắm vật tư, thiết bị - thi công xây dựng
Số hiệu: | 08/2018/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 22/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về