Bản án 08/2018/HNGĐ-ST ngày 31/01/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 08/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/01/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 31 tháng 01 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai  vụ án thụ lý số: 702/2016/TLST-HNGĐ ngày01 tháng 11 năm 2016 về tranh chấp Ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2018/QĐXX-ST ngày 10 tháng 01 năm 2018; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị L – sinh năm 1969

HKTT và chỗ ở: Số 9 phố Đ, phường K, quận , Hà Nội. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Quyết Đ – sinh năm 1963

HKTT: Số 9 phố Đ, phường K, quận , Hà Nội.

Chỗ ở: Số 20 ngõ 35 tổ 1A phố Đ, phường H, quận H, Hà Nội. Vắng mặt.

- Người giám hộ cho anh Trần Quyết Đ: Anh Trần Trọng B – sinh năm 1993.

Chỗ ở: Số 20 ngõ 35 tổ 1A phố Đ, phường H, quận H, Hà Nội Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 10 tháng 10 năm 2016 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày:

Chị và anh Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện có thời gian tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường C,  quận H, thành phố Hà Nội, đây là lần kết hôn thứ nhất. Sau khi kết hôn anh chị về ở tại địa chỉ 64 B, quận H, Hà Nội đến năm 2006 vợ chồng chuyển về sống tại số nhà 20 ngõ 25 tổ 1A phố Đ quận H, Hà Nội.Trong quá trình chung sống vợ chồng sống hòa thuận đến năm 2000 thì phát sinh mâu thuẫn, vì tính cách không hòa hợp, mặt khác anh Đ bị mắc bệnh hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi đã nhiều lần chửi bới đe dọa đến tính mạng của chị nên chị L và con gái đã phải chuyển đi nơi khác ở từ năm 2006, vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay không còn quan tâm đến nhau. Chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, để giải thoát cho cả hai bên sớm ổn định cuộc sống, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Chị L và anh Đ có 2 con chung là Trần Trọng B – sinh năm1993 và Trần Ngọc M – sinh năm 1998. Từ khi vợ chồng ly thân đến nay cháu B ở với anh Đ, cháu M ở với chị L, cả hai con đã đủ tuổi trưởng thành nên chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung (tài sản là động sản + bất động sản): Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về các khoản nợ chung: Chị L xác nhận vợ chồng không có khoản nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai ngày 04 tháng 11 năm 2016 và quá trình giải quyết bị đơn anh Trần Quyết Đ trình bày: Anh Đ và chị L kết hôn tự nguyện và có đăng ký tại UBND phường C, quận H, Hà Nội ngày 13/10/1992. Sau khi kết hôn vợ chồng về ở cùng bố mẹ anh Đ tại địa chỉ số 64 phố B, quận H đến năm 2006 vợ chồng ra ở riêng tại số 20 ngõ 35 phố Đphường, H quận H, Hà Nội, vợ chồng sống hòa thuận đến năm 2000 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị L không lo làm ăn nuôi con mà thường xuyên tụ tập bạn bè ăn uống đi đêm về khuya và bỏ nhà đi chơi, mặt khác do áp lực công việc dẫn đến tinh thần mệt mỏi bực tức nên vợ chồng thường xuyên cãi cọ nhau, đã nhiều lần vợ chồng nói chuyện để tháo gỡ mâu thuẫn nhưng không được, chị L đã chuyển ra chỗ khác ở, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2006  không quan tâm đến nhau nữa. Chị L có yêu cầu ly hôn, anh Đ không đồng ý vì anh xác định vẫn còn tình cảm với chị L, trường hợp chị L kiên quyết ly hôn anh chấp nhận ly hôn theo yêu cầu của chị L.

- Về con chung:  Anh Đ xác nhận vợ chồng có 2 con chung là Trần Trọng B – sinh năm 1993 và Trần Ngọc M – sinh năm 1998. Cả hai con chung đã đủ tuổi trưởng thành nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung (tài sản là động sản + bất động sản): Anh Đ không yêu cầuTòa án giải quyết.

- Về các khoản nợ chung: Anh Đ xác nhận vợ chồng không có các khoản nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Quá trình giải quyết vụ án anh Trần Quyết Đ có xuất trình bản sao bệnh án tâm thần, anh Đ đã điều trị tại Bệnh viện tâm thần ban ngày Mai Hương. Theo đơn yêu cầu giám định của chị Trần Thị L và anh Trần Quyết T (anh trai anh Đ), Ngày 10/3/2017 Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai đã ra quyết định trưng cầu giám định sức khỏe đối với anh Trần Quyết Đ.

Tại kết luận số 50/2017/GĐSKTT ngày 26/7/2017 của Viện pháp y tâm thần Trung Ương kết luận: Tại thời điểm giám định anh Trần Quyết Đ bị bệnh Tâm thần phân liệt thể Paranoid, theo bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F20.0. Bệnh ở giai đoạn thuyên giảm. Đối tượng hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Tại phiên tòa chị L giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh Đ.

Anh Trần Trọng B là người giám hộ cho anh Đ trình bày: Bố mẹ anh là ông Trần Quyết Đ và bà Trần Thị L có sảy mâu thuẫn, thường xuyên to tiếng, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, cuộc sống của bố mẹ không có hạnh phúc và đã sống ly thân từ lâu, tại phiên tòa anh B đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn của bố mẹ theo quy định của pháp luật.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai có quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, của HĐXX và những người tham gia tố tụng: Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai thụ lý đơn xin ly hôn của chị Trần Thị L và anh Trần Quyết Đ là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Sau khi thụ lý Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 195, 196, 197 Bộ luật TTDS; Về thời hạn chuẩn bị xét xử : Tòa án đảm bảo theo đúng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 BLTTDS. Sau khi thụ lý Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 195, 196, 197 Bộ luật TTDS.

Anh Trần Quyết Đ là người hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi,Tòa án đưa anh Trần Trọng B (con trai cả của chị L, anh Đ) vào tham gia tố tụng với tư cách là người giám hộ cho anh Đ là đúng với quy định của Bộ luật dân sự.

Tại phiên tòa, HĐXX, thư ký đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn không tham gia phiên tòa.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ Điều 21, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH quy định về án phí năm 2016 và Pháp lệnh về án phí lệ phí Tòa án năm 2009: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị L về việc ly hôn với anh Trần Quyết Đ; Về con chung: Các con đã đủ tuổi trưởng thành không đề nghị xét; Tài sản chung: các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị HĐXX  xét; Các khoản nợ chung: Chị L, anh Đ xác nhận không có nên không xét; Chị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và căn cứ vào kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa; Sau khi thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:  Nguyên đơn chị Trần Thị L có đơn xin ly hôn với anh Trần Quyết Đ, trú tại số 20 ngõ 35 phố Đ, tổ 1A phường H, quận H, Hà Nội. Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai theo quy định tại khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Do anh Trần Quyết Đ là người bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Theo quy định tại Điều 46, 47 Bộ luật dân sự, Tòa án xác định và đưa anh Trần Trọng B (con trai cả của anh Đ) tham gia tố tụng  trong vụ án với tư cách là người giám hộ cho anh Trần Quyết Đ.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Trần Quyết Đ, tuy nhiên tại phiên tòa ngày 26/01/2018 vẫn vắng mặt không có lý do; vì vậy Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 điều 227, điều 233, khoản 2 điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và ấn định phiên toà được mở vào hồi 14 giờ 00 phút ngày 31/01/2018, Quyết định hoãn phiên toà đã được tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Tại phiên toà hôm nay anh Đ vẫn vắng mặt không có lý do, người giám hộ cho anh Đ có mặt tại phiên tòa nên HĐXX căn cứ Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự quyết định xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

Chị L và anh Đ  đều công nhận anh chị  kết hôn trên sơ sở tự nguyện, có thời gian tìm hiểu và có đăng ký kết hôn ngày 13/10/1992 tại UBND phường C, quận H, thành phố Hà Nội. Đây là hôn nhân hợp pháp.Chị L có yêu cầu ly hôn với anh Đ vì tính cách không hòa hợp, anh Đ bị mắc bệnh hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, nhiều lúc không làm chủ được bản thân đã đe dọa đến tính mạng của chị, theo anh Đ thì nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do chị L mải chơi không quan tâm cuộc sống gia đình, tuy nhiên cả hai anh chị đều thừa nhận vợ chồng đã sảy ra mâu thuẫn từ năm 2000 không có biện pháp tháo gỡ nên đã sống ly thân từ năm 2006 đến nay. Tòa án cũng đã tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân của anh chị với những người trong gia đình và tổ dân phố đều thể hiện vợ chồng anh chị đã có mâu thuẫn thời gian dài không tháo gỡ được. Quá trình giải quyết Tòa án đã thông báo cho các bên đến hòa giải để tạo điều kiện cho anh chị hàn gắn cuộc hôn nhân, tuy nhiên chị L đã có đơn từ chối tham gia phiên hòa giải với lý do chị và anh Đ không thể ngồi nói chuyện được với nhau do vậy Tòa án đã không tiến hành được việc hòa giải. Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng chị L, anh Đ đã trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân nhiều năm, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, chị L xin ly hôn là có căn cứ, do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của chị L, xử cho chị L được ly hôn với anh Đ là phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.

Về con chung: Chị L và anh Đ có hai con chung là Trần Trọng B – sinh năm1993 và Trần Ngọc M – sinh năm 1998, cả hai con đã đủ tuổi trưởng thành nênHĐXX không đề cập giải quyết.

Về tài sản chung (động sản + bất động sản): Chị L và anh Đ không yêu cầu nên HĐXX không đề cập giải quyết.

Về các khoản nợ chung: Chị L, anh Đ  xác nhận vợ chồng không có các khoản nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy HĐXX không đề cập giải quyết.

[3] Về nghĩa vụ chịu án phí: Chị Trần Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình. Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật dân sự; Căn cứ  khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 228, 271, 273, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 48 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Khoản 8 Điều 27 Pháp Lệnh án phí, lệ phí Tòa án; Khoản 1 Mục I Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án;

[2] Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị L.

Chị Trần Thị L được ly hôn với anh Trần Quyết Đ.

Về con chung: Chị L và anh Đ có hai con chung là Trần Trọng B – sinh năm1993 và Trần Ngọc M – sinh năm 1998, cả hai con đã đủ tuổi trưởng thành nênHĐXX không đề cập giải quyết.

Về tài sản chung (động sản + bất động sản): Chị L và anh Đ không yêu cầu nên HĐXX không đề cập giải quyết.

Về các khoản nợ chung: Chị L, anh Đ xác nhận vợ chồng không có các khoản nợ chung nên  không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy HĐXX không đề cập giảiquyết.

[3] Về án phí: Chị Trần Thị L phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 200.000 đồng chị L đã nộp theo biên lai thu tiền số 9717 ngày 25/10/2016 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Chị L đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị L, anh Trần Trọng B có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trần Quyết Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 08/2018/HNGĐ-ST ngày 31/01/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:08/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;