TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 08/2017/DS-ST NGÀY 28/12/2017 VỀ VIỆC ĐÒI NỢ
Ngày 28 tháng 12 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 13/2017/TLST-DS ngày 13/10/2017 về Dân sự theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2017/QĐXX-ST ngày 01/12/2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Phạm Công Đ, sinh năm 1983
Chị Nguyễn Thị Bích H, sinh năm 1992
Đều TQ: Thôn PV, xã ĐP, huyện ĐH, tỉnh TB
Chị Hằng ủy quyền cho anh Đô tham gia tố tụng (văn bản ủy quyền ngày 17/10/2017)
- Bị đơn: Ông Vũ Xuân H, sinh năm 1973
TQ: Thôn PV, xã ĐP, huyện ĐH, tỉnh TB
(Tại phiên tòa có mặt anh Đ, vắng mặt chị H, ông H)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn anh Phạm Công Đ và chị Nguyễn Thị Bích H trình bày: Anh Đ và chị H có cửa hàng kinh doanh thức ăn chăn nuôi gia súc, trong thời gian từ ngày 14/11/2014 đến ngày 15/01/2016 anh Đ có bán hàng cho ông Vũ Xuân H, loại cám viên hiệu Con voi vàng. Tính theo hóa đơn chốt nợ ngày 15/01/2016 thì ông H còn nợ vợ chồng anh Đ số tiền mua cám là 58.952.000đ (năm mươi tám triệu chín trăm năm mươi hai ngàn đồng). Ông H có hứa với vợ chồng anh Đ là khi nào bán lợn sẽ trả nhưng đến khi bán lợn vợ chồng anh Đ đòi nhiều lần mà ông H không trả. Nay anh Đ, chị H đề nghị Tòa án buộc ông Vũ Xuân H phải trả cho anh chị tiền mua cám còn nợ là 58.952.000đ, không yêu cầu ông H phải trả tiền lãi.
Bị đơn ông Vũ Xuân H trình bày: Gia đình ông có chăn nuôi lợn, từ năm 2015 ông có mua cám của anh Đ, chị H để chăn nuôi. Quá trình mua cám có ghi hóa đơn và ông H cam kết sau khi bán lợn sẽ trả tiền mua cám. Năm 2016 do giá lợn hơi giảm mạnh nên ông H không có tiền để trả tiền mua cám cho anh Đ, chị H. Tính đến nay ông H còn nợ anh Đ, chị H tiền mua cám là 58.952.000đ. Nay anh Đ, chị H đòi thì ông H chấp nhận sẽ trả nhưng hiện nay bản thân ông đang khó khăn chưa thể trả ngay được và xin được trả dần số tiền nợ trên.
Tại phiên tòa đại diện VKSND huyện Đông Hưng phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của thẩm phán, của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đều tuân thủ đúng với quy định của pháp luật.
Về nội dung: có căn cứ chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, sau khi đương sự trình bày ý kiến, Tòa án xét thấy:
1. Về tố tụng: Ông Vũ Xuân H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt vì vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt đối với ông H.
2. Về nội dung:
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án gồm hóa đơn bán hàng ngày 15/01/2016; biên bản làm việc của UBND xã Đồng Phú với ông Vũ Xuân H ngày 21/3/2017 cũng như biên bản ghi lời khai ngày 26/10/2017, ông Vũ Xuân H đều thừa nhận có mua cám của anh Đ, chị H và đến nay còn nợ tiền mua cám là 58.952.000đ như anh Đ, chị H yêu cầu. Ông H đồng ý trả số tiền nợ trên nhưng hiện nay ông còn nhiều khó khăn không thể trả một lúc số tiền trên nên xin được trả dần. Do đó anh Đ, chị H khởi kiện yêu cầu ông H phải trả số tiền nợ mua cám là có căn cứ cần chấp nhận. Anh Đ, chị H không yêu cầu ông Vũ Xuân H phải trả lãi của số tiền trên nên không đặt ra giải quyết.
Về án phí: Anh Đ, chị H không phải chịu án phí, ông Vũ Xuân H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 440; Điều 468 Bộ luật dân sự 2015; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Công Đ và chị Nguyễn Thị Bích H.
2. Buộc ông Vũ Xuân H, sinh năm 1973 trú tại Thôn PV, xã ĐP, huyện ĐH, tỉnh TB phải trả anh Phạm Công Đ, sinh năm 1983 và chị Nguyễn Thị Bích H, sinh năm 1992, trú tại Thôn PV, xã ĐP, huyện ĐH, tỉnh TB số tiền nợ gốc là 58.952.000đ (năm mươi tám triệu chín trăm năm mươi hai ngàn đồng)
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2, Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Về án phí: Anh Phạm Công Đ và chị Nguyễn Thị Bích H không phải chịu án phí, trả lại anh Đ, chị Hsố tiền 1.500.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu số 0007432 ngày 12/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự Ông Vũ Xuân H phải chịu 2.947.600đ tiền án phí dân sự
Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 08/2017/DS-ST ngày 28/12/2017 về đòi nợ
Số hiệu: | 08/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về