TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG- THÁP CHÀM TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 08/2017/DS-ST NGÀY 11/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 11 tháng 8 năm 2017 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố P. xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 38/TLST-DS ngày 15 tháng 02 năm 2017 về tranh chấp “hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2017/QĐXX-ST ngày 04 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Đặng Thị H., sinh năm: 1958, trú: số nhà X. đường K., khu phố 1, phường Đ., thành phố P.
- Bị đơn: Ông Trần Hồng P. và bà Lê Thị M. Cùng địa chỉ: khu phố 10, phường P., thành phố P., tỉnh N.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn – bà Đặng Thị H. - trình bày:
Thông qua ông Hồ Văn B. là anh rể, bà đã cho ông Trần Hồng P. vay nhiều lần. Mỗi lần vay đều viết giấy nhận nợ. Đến ngày 02/4/2016, ông Trần Hồng P. tiếp tục vay lần thứ ba, bà đề nghị viết giấy nhận nợ chung cho cả 03 lần và có vợ ông P. tên là Lê Thị M. cùng ký.
Ông P. đã mang giấy nhận tiền đến, nội dung là ông vay tiền của bà với tổng số tiền 110.000.000 đồng, trên giấy nhận tiền này có chữ ký của bà M., nhưng bà không trực tiếp chứng kiến bà M. ký tên, và khi cho vay thì không có mặt bà M.
Ông P. trình bày với bà là ông vay tiền để phục vụ cho công việc thầu xây dựng cuả ông, nhưng sau này bà được biết ông P. không làm nghề này.
Ông P. cũng giao cho bà 01 bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mã số BM 2072YYY do Uỷ ban nhân dân thành phố P. cấp ngày 17/10/2012 cho ông Trần Hồng P. để làm tin.
Bà cho rằng vợ chồng ông P. đồng thuận vay. Nhiều lần bà liên hệ với vợ chồng ông P. thì bà M. cam kết cùng có nghĩa vụ trả nợ cùng ông P. Tuy nhiên do vợ chồng ông P. không trả nợ nên bà đã khởi kiện tại Tòa án nhân dân thành phố P., yêu cầu: Ông P. và vợ là bà Lê Thị M. có nghiã vụ trả cho bà 110.000.000 đồng nợ gốc và tiền lãi tính từ tháng 7 năm 2016 đến khi Tòa án xét xử, lãi suất 01%/ tháng.
Trước khi khởi kiện tại Tòa án, bà H. đã gửi Đơn tố cáo ông P. đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P. Tòa án đã thu thập lời khai cuả ông Trần Hồng P. tại cơ quan điều tra (các bút lục 19- 23).
Bà H. nộp bản gốc 01 giấy nhận tiền viết ngày 02/4/2016, có chữ ký của ông P. và bà M.
Bị đơn vắng mặt và đã được tống đạt hợp lệ.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện cuả nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu vào tài liệu, chứng cứ đã đƣợc xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]Tại các biên bản lấy lời khai của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P., ông Trần Hồng P. thừa nhận: Ông có vay số tiền 110.000.000 đồng của bà Đặng Thị H. thông qua sự quen biết giới thiệu từ ông Hồ Văn B. Giấy nhận tiền viết ngày 02/4/2016 được ông P. khẳng định do ông viết. Ông P. trình bày số tiền ông vay nhằm mục đích phục vụ cho công việc, ông tự ý ký tên bà Lê Thị M., còn vợ ông không biết và không sử dụng số tiền này.
[2]Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án nhân dân thành phố P., ông P. và bà M. không tham gia tố tụng. Lời khai cuả ông P. tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P. phù hợp với lời khai của bà Đặng Thị H. Căn cứ vào các chứng cứ thu thập được, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ buộc ông Trần Hồng P. có nghiã vụ trả toàn bộ số tiền 110 triệu đồng.
[3]Đối với yêu cầu của bà Đặng Thị P. buộc bà Lê Thị M cùng có nghĩa vụ trả nợ, Hội đồng xét xử xét thấy: khi vay tiền bà H. thừa nhận chỉ có mặt ông P., số tiền vay phục vụ cho công việc buôn bán giàn giáo của ông P., không có cơ sở chứng minh vợ chồng ông P. cùng vay hoặc cùng sử dụng số tiền trên trang trải cho cuộc sống gia đình, do đó không chấp nhận yêu cầu của bà H. buộc bà M. có nghĩa vụ cùng trả nợ.
[4]Về tiền lãi: trong giấy nhận tiền ghi lãi suất 03%/tháng, tại phiên tòa bà H. yêu cầu ông P. có nghĩa vụ trả lãi mỗi tháng 1% cho đến khi Tòa án xét xử kể từ tháng 7 năm 2016. Ông P. cho rằng ông đã trả lãi đến tháng 8 năm 2016 nhưng không có chứng cứ chứng minh.
[5]Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H. buộc ông P. phải trả lãi đối với số tiền 110.000.000 đồng tính từ tháng 7 năm 2017 đến khi Tòa án xét xử là ngày 11 tháng 8 năm 2017, là 12 tháng 11 ngày. Về lãi suất: Hội đồng xét xử căn cứ vào Quyết định số 2868/QĐ- NHNN ngày 29 tháng 11 năm 2010 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định lãi suất cơ bản là 09%/năm, lãi suất không vượt quá 150% lãi suất cơ bản, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận lãi suất như yêu cầu của bà H. là 1%/tháng.
Số tiền lãi được tính là:
[110.000.000 đồng x 1%/tháng x 12 tháng] + [110.000.000 đồng x (1%/tháng :30 ngày) x 11 ngày]= 9.900.000 đồng + (0,03% x 110.000.000 đồng x 11 ngày) = 13.200.000 đồng + 363.000 đồng = 13.563.000 đồng
[6]Tổng cộng ông P. có nghĩa vụ trả cả tiền gốc và tiền lãi cho bà H: 110.000.000 đồng + 13.563.000 đồng = 123.563.000 đồng.
Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông P. có nghĩa vụ chịu án phí: 5% x 123.563.000 đồng= 6.178.000 đồng. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: khoản 3 điều 26, điểm a khoản 1 điều 35, điều 227, điều 266 Bộ luật Tố tụng Dân sự, điều 688 Bộ luật Dân sự 2015, điều 471, khoản 1 điều 476, điều 474 Bộ luật Dân sự 2005, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Buộc ông Trần Hồng P. có nghĩa vụ trả cho bà Đặng Thị H. 123.563.000 đồng (một trăm hai mươi ba triệu năm trăm sáu mươi ba ngàn đồng), bao gồm nợ gốc: 110.000.000 đồng, nợ lãi: 13.563.000 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị H. buộc bà Lê Thị M. cùng có nghĩa vụ trả nợ với ông Trần Hồng P.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền. Hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khỏan 2 điều 468 Bộ Luật Dân sự, tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Về án phí:
Ông Trần Hồng P. phải chịu 6.178.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Trả lại cho bà H. số tiền tạm ứng án phí 2.942.000 theo biên lai thu tiền số 0012533 ngày 15/02/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P.
Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt nguyên đơn. Quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
“Trường hợp bản án, quyết định, được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.”
Bản án 08/2017/DS-ST ngày 11/08/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 08/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 11/08/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về