TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHĨA LỘ, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 07/2024/HS-ST NGÀY 15/03/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở tòa án nhân dân thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên bái, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2024/TLST-HS ngày 07/02/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2024/QĐXXST-HS ngày 28/2/2024 đối với bị cáo:
Hà Văn V. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh ngày 03/3/1979, tại thị xã N, tỉnh Yên Bái. Nơi cư trú: thôn N, xã T, thị xã N, tỉnh Yên Bái. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Tày. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 4/12. Họ và tên cha: Hà Văn N, sinh năm 1948 (Đã chết). Họ và tên mẹ: Hoàng Thị S, sinh năm: 1949. Vợ: Hoàng Thị I, sinh năm 1983. Con: Có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2008. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Năm 2010 bị xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy tại bản án hình sự số 05/2010/HSST ngày 09/9/2010 của tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Yên Bái.
- Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/12/2023, tạm giam từ ngày 25/12/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Nghĩa Lộ, có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Thào Thị I, sinh năm 1983, trú tại thôn N, xã T, thị xã N, tỉnh Yên Bái, có mặt.
*Người làm chứng:
- Lường Văn C, sinh năm 1988, trú tại Bản N, xã P, thị xã N, tỉnh Yên Bái, vắng mặt.
- Ngọc Văn P, sinh năm 1995, trú tại Bản M, xã H, thị xã N, tỉnh Yên Bái, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 19 giờ ngày 21/12/2023, tổ công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Hình sự - Kinh tế - Ma túy Công an thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái phát hiện và lập biên bản phạm tội quả tang đối với Hà Văn V, sinh năm 1979, trú tại thôn N, xã T, thị xã N và Lường Văn C, sinh năm 1988, trú tại bản N, xã P, thị xã N đang có hành vi mua, bán trái phép chất ma túy. Tạm giữ của Hà Văn V số tiền 200.000đ V khai là tiền vừa bán 02 gói ma túy, loại Heroine cho C và 01 xe mô tô biển kiểm soát 21K1 – X đã qua sử dụng. Tạm giữ của Lường Văn C 01 gói giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong có chứa chất bột nén màu trắng C khai là gói Heroine vừa mua được của V, còn 01 gói Heroine trên đường bỏ chạy C đã làm rơi mất, 01 điện thoại di động màu xanh đen trên mặt có chữ Nokia đã qua sử dụng. Hồi 20 giờ 10 phút cùng ngày, tổ công tác tiến hành truy tìm gói heroine do C đánh rơi nhưng không tìm thấy.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Nghĩa Lộ tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở, đồ vật của Hà Văn V tại thôn N, xã T, thị xã N. Kết quả khám xét đã thu giữ 01 gói giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong có chứa chất bột nén màu trắng nghi là Heroine để dưới đệm đầu giường ngủ của Hà Văn V và tạm giữ số tiền 660.000đ trong ví để trên móc quần áo trong phòng ngủ của Hà Văn V.
Kết quả điều tra, bị cáo Hà Văn V đã khai nhận:
Khoảng 15 giờ ngày 20/12/2023, Hà Văn V đi bộ đến khu vực thuỷ điện N thuộc thôn N, xã T, thị xã N để tìm người bán ma túy. V thấy một người đàn ông đi xe mô tô loại xe Dream đi ngược chiều thì vẫy người này lại hỏi mua ma tuý, V mua được của người đàn ông này 01 gói ma tuý, loại Heroine với giá 200.000đ. V mang số ma túy về nhà chia thành 08 gói nhỏ để bán và để sử dụng. V sử dụng hết 01 gói vào tối ngày 20/12/2023, 01 gói để dưới đệm đầu giường ngủ còn 06 gói V đã bán cho C 03 lần, mỗi lần 02 gói, cụ thể như sau:
Lần thứ nhất: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 20/12/2023, C gọi điện cho V hỏi mua ma túy, V đồng ý bán và hẹn C đến khu vực đường bê tông liên thôn thuộc thôn N, xã T, thị xã N cách nhà C khoảng 400m để trao đổi mua bán Heroine. Tại điểm hẹn, V đã bán cho C 02 gói Heroine với giá 100.000đ/01 gói, thu được 200.000đ. Sau khi mua ma túy xong, C mang đi đâu sử dụng V không biết.
Lần thứ 2: Khoảng 11 giờ ngày 21/12/2023, C tiếp tục gọi điện cho V để hỏi mua ma túy, cả hai hẹn nhau đến địa điểm khu vực đường bê tông liên thôn hôm trước để giao dịch mua bán Heroine. Tại đây, V đã bán cho C 02 gói Heroine với giá 100.000đ/01 gói, thu được 200.000đ. Mua được Heroine, C mang đi đâu sử dụng V không biết.
Lần thứ 3: Khoảng 18 giờ 40 phút ngày 21/12/2023, C gọi điện thoại cho V để hỏi mua ma túy, hai người hẹn nhau đến khu vực gần nhà V để trao đổi mua bán. C đi bộ từ xã P đến khu vực trường cấp 2 xã P, thị xã N thì C thấy Ngọc Văn P đi xe máy tới nên C đã xin đi nhờ đến xã T, nhưng khi đi đến gần cầu treo thuộc thôn bản C, xã T thì xe mô tô của P bị hỏng. C gọi lại bảo V mang ma túy đến khu vực cầu treo, đến 19 giờ cùng ngày thì V đi xe mô tô biển kiểm soát 21K1- X đến điểm hẹn thấy C đang đứng cùng P thì V đưa luôn cho C 02 gói ma túy loại Heroine, C nhận Heroine và đưa lại cho V 200.000đ, V cất tiền vào túi quần trước bên trái thì bị phát hiện, bắt quả tang, khám xét, thu giữ các vật chứng, tài sản như đã nêu trên.
* Tại bản Kết luận giám định số 698/KL-KTHS ngày 27/12/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận:
“1. Chất bột nén màu trắng thu giữ khi bắt quả tang Lường Văn C có khối lượng là 0,04 gam. 0,04 gam chất bột nén màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine.
2. Chất bột nén màu trắng thu giữ khi khám xét nơi ở của Hà Văn V có khối lượng là 0,07 gam. 0,07 gam chất bột nén màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine.
* Tại bản Kết luận giám định số 699/KL-KTHS ngày 27/12/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận: 03 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 100.000 đồng; 08 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 50.000 đồng; 06 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 20.000 đồng; 04 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 10.000 đồng gửi giám định đều là tiền thật.
Bản cáo trạng số: 04/CT-VKS - NL ngày 06/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân Thị xã Nghĩa Lộ đã truy tố bị cáo Hà Văn V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thị xã Nghĩa Lộ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; Điều 38; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hà Văn V từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử: Đối với số tiền 860.000đ, trong đó có 600.000đ là tiền do bị cáo phạm tội mà có đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước, số tiền còn lại 260.000đ trả lại cho bị cáo vì không liên quan đến vụ án; 01 điện thoại di động màu xanh đen, trên mặt có chữ Nokia, đã qua sử dụng là tài sản của Lường Văn C nhưng liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo V nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước; 01 xe mô tô nhãn hiệu ESPRO, màu sơn đen biển kiểm soát 21K1 – X. Quá trình điều tra xác định là tài sản chung của vợ chồng bị cáo Hà Văn V, khi bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội vợ bị cáo là bà Thào Thị I không biết nên đề nghị trả lại cho bà Thào Thị I; 04 vỏ phong bì đã mở niêm phong và các mảnh giấy màu trắng là vật không có giá trị đề nghị tịch thu tiêu hủy.
Tại phiên tòa bị cáo Hà Văn V thừa nhận toàn bộ hành vi mua bán trái phép chất ma túy như cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Quá trình điều tra Lường Văn C cũng khai nhận thời gian, địa điểm, số lần, số tiền mua Heroine để sử dụng phù hợp với lời khai của bị cáo Hà Văn V, các lần mua Heroine của bị cáo Vui ngày 21 và 22/12/2023, C đều mang đến đoạn đường vắng thuộc xã P, thị xã N một mình sử dụng hết.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người có quyền lợi liên quan bà Thào Thị I- vợ bị cáo trình bày: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu ESPRO, màu sơn đen, biển kiểm soát 21K1 – X, là tài sản chung của vợ chồng đã mua từ tháng 9/2023, bà không biết 3 bị cáo dùng làm phương tiện để phạm tội, do đó bà đề nghị Hội đồng xét xử cho bà xin lại chiếc xe mô tô trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thị xã Nghĩa Lộ, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghĩa Lộ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về chứng cứ buộc tội:
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận về hành vi phạm tội mình đã thực hiện, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, của người làm chứng, phù hợp với kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ kết luận: Hà Văn V đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,11 gam Heroine để bán trái phép cho người khác, trong hai ngày 20/12 và 21/12/2023, Hà Văn V đã 03 lần bán trái phép Heroine cho Lường Văn C mỗi lần 02 gói được 600.000đ. Hà Văn V là người có đầy đủ khả năng nhận thức, biết rõ việc bán trái phép Heroine cho người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì vụ lợi vẫn cố ý thực hiện. Với hành vi tàng trữ trái phép Heroine để bán và thực tế đã 03 lần bán trái phép Heroine cho người khác của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung tăng nặng: “Phạm tội hai lần trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghĩa Lộ đã truy tố.
Heroine là chất ma tuý gây nguy hại lớn cho đời sống xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách, biện pháp cương quyết nhằm loại bỏ ma tuý ra khỏi đời sống xã hội. Hà Văn V biết rõ tác hại của ma túy đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vì vụ lợi bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hại lớn cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến chính sách kiểm soát ma túy của Đảng và Nhà nước, do đó cần phải được xử lý nghiêm minh để giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
[3] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn, khai báo đầy đủ, rõ ràng về hành vi phạm tội của mình; ngoài hành vi bán trái phép ma túy cho Lường Văn C và bị bắt quả tang chiều tối ngày 21/12/2023, bị cáo còn tự thú nhận trước đó vào chiều tối ngày 20/12/2023 và trưa ngày 21/12/2023 bị cáo cũng bán trái phép Heroin cho Lường Văn C. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Tự thú” và “Thành khẩn khai báo” quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, được Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
Về nhân thân: Bị cáo Hà Văn V là đối tượng nghiện chất ma túy, Năm 2010 đã bị xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy tại bản án hình sự số 05/2010/HSST ngày 09/9/2010 của tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Yên Bái, mặc dù đã được xóa án tích, nhưng thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu.
[4] Với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân bị cáo và căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự. Hội đồng xét xử thấy rằng cần áp dụng hình phạt tù với mức hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có thể giúp bị cáo cải tạo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, góp phần giáo dục người khác ý thức tôn trọng pháp luật và đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Hà Văn V không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước.
[5] Về vật chứng, tài sản tạm giữ của vụ án: Đối với số tiền 860.000đ, trong đó có 600.000đ là tiền do bị cáo phạm tội mà có cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước, số tiền còn lại 260.000đ trả lại cho bị cáo vì không liên quan đến vụ án; 01 điện thoại di động màu xanh đen, trên mặt có chữ Nokia, đã qua sử dụng là tài sản của Lường Văn C nhưng là công cụ để thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy giữa bị cáo và đối tượng Lường Văn C nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước; 01 xe mô tô nhãn hiệu ESPRO, màu sơn đen biển kiểm soát 21K1 – X. Quá trình điều tra xác định là tài sản chung của vợ chồng bị cáo Hà Văn V, khi bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội vợ bị cáo là bà Thào Thị I không biết nên trả lại cho bà Thào Thị I; 04 vỏ phong bì đã mở niêm phong và các mảnh giấy màu trắng là vật không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Trong vụ án này còn có:
- Đối với Lường Văn C là người nghiện ma tuý đã 03 lần mua heroine của bị cáo Hà Văn V để sử dụng. Số Heroine C mua của V ngày 20/12/2023 và khoảng 11 giờ ngày 21/12/2023, C đã sử dụng hết nên không xác định được khối lượng. Số heroine C mua của V khoảng 18 giờ 40 phút ngày 21/12/2023 C đã đánh rơi mất 01 gói Heroine khi bỏ chạy nên không xác định được khối lượng, gói Heroine còn lại có khối lượng 0,04 gam. Kết quả điều tra xác định hành vi đó không cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vì vậy, Công an thị xã Nghĩa Lộ đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với C về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng quy định của pháp luật.
- Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Hà Văn V vào ngày 20/12/2023 tại khu vực thôn N, xã T, thị xã N, tỉnh Yên Bái. Do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này, vì vậy Cơ quan điều tra không đủ căn cứ xác minh, làm rõ trong vụ án.
- Đối với Ngọc Văn P là người cho Lường Văn C đi nhờ xe đến khu vực thôn Bản C, xã T, thị xã N. Kết quả điều tra xác định, P không biết C đến khu vực trên để mua Heroine của Hà Văn V nên Cơ quan điều tra không đề cập việc xử lý đối với P trong vụ án này là phù hợp.
Những kết luận và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Hà Văn V đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hà Văn V 07 năm tù (Bảy năm tù), thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 22/12/2023.
2. Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng); 01 điện thoại di động màu xanh đen, trên mặt có chữ Nokia, đã qua sử dụng.
- Trả lại cho bị cáo 260.000đ (Hai trăm sáu mươi nghìn đồng).
- Trả lại cho bà Thào Thị I 01 xe mô tô màu sơn đen, nhãn hiệu ESPRO, biển kiểm soát 21K1 – X đã qua sử dụng.
- Tịch thu tiêu hủy: 04 vỏ phong bì đã mở niêm phong và các mảnh giấy màu trắng.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng lập hồi 16 giờ 55 phút ngày 07/02/2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Nghĩa Lộ và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Nghĩa Lộ).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Hà Văn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ.
Bị cáo Hà Văn V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Thào Thị I có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 07/2024/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 07/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Nghĩa Lộ - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về