TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ A, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 07/2024/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2024 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 28 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 240/2023/TLST-HNGĐ ngày 27/12/2023 “Về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 11/3/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim S, sinh năm 2002; địa chỉ: Tổ B, phường N, thị xã A, tỉnh G. Có mặt.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thành N, sinh năm 1998; địa chỉ: Tổ N, phường A, thị xã A, tỉnh G. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim S trình bày: Ngày 13/4/2021, chị S và anh Nguyễn Thành N tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, thị xã A, tỉnh G. Trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, anh N không quan tâm chăm lo cho gia đình nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Hiện nay, tình cảm vợ chồng không còn, không thể kéo dài cuộc sống chung với nhau. Do vậy, chị S yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh N. Về con chung: Chị S và anh N có một con chung là Nguyễn Thành K, sinh ngày 19/8/2021. Chị S đề nghị được nuôi dưỡng cháu K và không yêu cầu anh N phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Chị S không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn anh Nguyễn Thành N tại bản khai ngày 19/01/2024 trình bày: Hiện nay, anh đang chấp hành án tại Trại giam Gia Trung, án phạt là 13 năm tù, anh chưa đồng ý ly hôn với chị S. Về con chung: Anh N và chị S có một con chung là Nguyễn Thành K, sinh ngày 19/8/2021, hiện anh đang chấp hành án nên đồng ý giao cháu K cho chị S nuôi dưỡng. Về tài sản chung và nợ chung: Anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã A phát biểu ý kiến: Xét thấy, tình cảm vợ chồng chị S và anh N không còn, mâu thuẫn vợ chồng là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài nên cần chấp nhận yêu cầu của chị S được ly hôn với anh N. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thành K, sinh ngày 19/8/2021 cho chị S nuôi dưỡng. Về tài sản chung và nợ chung: Chị S và anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập. Về án phí, chị S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim S yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Thành N, sinh năm 1998; địa chỉ: Tổ N, phường A, thị xã A, tỉnh G. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã A. Bị đơn anh Nguyễn Thành N có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Nguyễn Thành N.
[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Kim S và anh Nguyễn Thành N có đủ điều kiện kết hôn và đã đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, chị S và anh N đã phát sinh mâu thuẫn dẫn đến chị S có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh N. Tổ dân phố B và Ủy ban nhân dân phường N đã có xác nhận về tình trạng mâu thuẫn của chị S và anh N. Tòa án cũng đã tiến hành xác minh nguyên nhân dẫn đến chị S yêu cầu ly hôn tại Tổ dân phố N, phường A, thị xã A. Anh N có lời khai không đồng ý ly hôn với chị S nhưng chị S vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với anh N. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã phân tích động viên để vợ chồng đoàn tụ, nhưng chị S vẫn cương quyết ly hôn với anh N. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị S và anh N là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị S đối với anh N.
[3] Về con chung: Chị S và anh N có một con chung là Nguyễn Thành K, sinh ngày 19/8/2021. Chị S có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu anh N cấp dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy, vì lợi ích của con chung, hiện nay cháu K còn nhỏ, dưới 36 tháng tuổi và đang được chị S trực tiếp nuôi dưỡng. Chị S có khả năng lao động, có nơi cư trú ổn định nên đủ điều kiện để nuôi con. Vì vậy, cần giao cháu K cho chị S được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Chị S không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Sa và anh Nhựt không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chị Sa phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, anh Nhựt không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 227, 228, 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
2. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Kim S.
- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Kim S được ly hôn với anh Nguyễn Thành N.
- Về nuôi con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Kim S được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Thành K, sinh ngày 19/8/2021 khi cháu K chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Chị S không yêu cầu anh N phải cấp dưỡng nuôi con.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Trên cơ sở lợi ích của con, các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.
- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kim S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn là 300.000đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng, theo biên lai thu tiền số 0012935 ngày 27/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A, tỉnh G; chị S đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
3. Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (28/3/2024), các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh G xét xử phúc thẩm. Thời hạn trên đối với người vắng mặt được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 07/2024/HNGĐ-ST về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung
Số hiệu: | 07/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Ayun Pa - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về