Bản án 07/2021/HS-ST ngày 18/05/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH THẠNH, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 07/2021/HS-ST NGÀY 18/05/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 18 tháng 5 năm 2021, tại: Hội trường xét xử - Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Đoàn Văn Q Tên gọi khác: Tí Q. Giới tính: Nam.Sinh ngày: 10/8/1968, tại: Huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định. Nơi cư trú: Thôn VB, xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm nông. Chức vụ: Không. Trình độ học vấn: 05/12. Họ tên cha: Đoàn C, sinh năm 1934 (Đã chết). Họ tên mẹ: Nguyễn Thị D, sinh năm 1936. Họ và tên vợ: Võ Thị Xuân A, sinh năm 1970 (đã ly hôn). Con: Có 05 người con, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 2001. Tiền án/Tiền sự: Không. Nhân thân: Vào ngày 23/9/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định tuyên phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” theo Bản án số 11/2014/HSST. Bị cáo Đoàn Văn Q đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 22/6/2020 đến nay – có mặt.

2. Họ và tên: Nguyễn Thanh C. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh ngày: 01/01/1989, tại: Vĩnh Thạnh, Bình Định. Nơi cư trú: Thôn VH, xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm nông. Chức vụ: Không. Trình độ học vấn: 12/12. Họ tên cha: Nguyễn Văn L, sinh năm 1962.

Họ tên mẹ: Bùi Thị H, sinh năm 1962. Họ và tên vợ: Nguyễn Thị M, sinh năm 1988. Con: Nguyễn Bích C, sinh năm 2015. Tiền án/Tiền sự:

Không. Bị cáo Nguyễn Thanh C đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 22/6/2020 đến nay – có mặt.

3. Họ và tên: Hà Văn Kh. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh ngày: 29/9/1986, tại: Huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Nơi cư trú: Thôn Xuân Quang, xã Cát Tường, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm nông. Chức vụ: không. Trình độ học vấn: 11/12. Họ tên cha: Hà Văn M, sinh năm 1962. Họ tên mẹ: Huỳnh Thị S, sinh năm 1962. Họ và tên vợ: Nguyễn Thị Hồng L, sinh năm 1989. Con: Có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2019. Tiền án/Tiền sự: Không. Bị cáo Hà Văn Kh đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 22/6/2020 đến nay – có mặt.

4. Họ và tên: Ngô Bá Ch. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh năm: 1975, tại: Huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Nơi cư trú: Thôn An Nội, xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm nông. Chức vụ: Không. Trình độ học vấn: 06/12. Họ tên cha: Ngô Bá H, sinh năm 1938 (Đã chết). Họ tên mẹ: Trần Thị Ng, sinh năm 1940. Họ và tên vợ: Huỳnh Thị Thúy H, sinh năm 1983. Con: Có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2019. Tiền án/Tiền sự: Không. Bị cáo Ngô Bá Ch đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 22/6/2020 đến nay – có mặt.

5. Họ và tên: Phạm Minh T. Tên gọi khác: Mười. Giới tính: Nam. Sinh ngày: 26/4/1999, tại: Huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định. Nơi cư trú: Thôn VH, xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm nông. Chức vụ: Không. Trình độ học vấn: 10/12. Họ tên cha: Phạm Văn Tr, sinh năm 1955. Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1956. Gia đình có 08 anh em, bị cáo là con út trong gia đình. Tiền án/Tiền sự: Không. Bị cáo Phạm Minh T đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 22/6/2020 đến nay – có mặt.

6. Họ và tên: Huỳnh Phát L. Tên gọi khác: Khịch. Giới tính: Nam. Sinh ngày: 07/02/1986, tại: Thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai. Nơi cư trú: Thôn 6, xã Thành An, thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc:

Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm nông. Chức vụ: Không. Trình độ học vấn: 09/12. Họ tên cha: Huỳnh Phát L, sinh năm 1962 (Đã chết). Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1962. Họ và tên vợ: Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1991. Con: Nguyễn Tiểu N, sinh năm 2013. Tiền án/Tiền sự: Không. Bị cáo Huỳnh Phát L đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 22/6/2020 đến nay – có mặt.

7. Họ và tên: Nguyễn Thành Đ. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam.

Sinh ngày: 24/6/1987, tại: Huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định. Nơi cư trú: Thôn V, xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm nông. Chức vụ: Không. Trình độ học vấn: 12/12. Họ tên cha: Nguyễn Văn H1, sinh năm 1962. Họ tên mẹ: Trần Thị D, sinh năm 1963. Họ và tên vợ: Nguyễn Lê T, sinh năm 1986. Con: Có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2017. Tiền án/Tiền sự: Không. Nhân thân: Vào ngày 20/7/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương tuyên phạt 09 tháng tù có thời hạn về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Bản án số 169/2010/HSST. Bị cáo Nguyễn Thành Đ đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 22/6/2020 đến nay – có mặt.

8. Họ và tên: Tô Minh L. Tên gọi khác: Duy. Giới tính: Nam. Sinh ngày: 06/10/1990, tại: Huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Nơi cư trú: Thôn M, xã ML, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lái xe. Chức vụ: Không. Trình độ học vấn: 08/12. Họ tên cha: Tô Văn B, sinh năm 1965. Họ tên mẹ: Thái Thị H, sinh năm 1956. Họ và tên vợ: Trần Thị T, sinh năm 1996. Con: có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2016. Tiền án/Tiền sự: Không. Bị cáo Tô Minh L đang bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 31/7/2020 đến nay – có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa liên quan:

+ Anh Nguyễn Thành C – sinh năm: 1991; Địa chỉ: Thôn V, xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định – có mặt.

+ Anh Phạm Công D – sinh năm: 1986; Địa chỉ: Khu phố Định Bình, thị trấn Vĩnh Thạnh, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định – có mặt.

+ Bà Võ Thị H – sinh năm: 1976; Địa chỉ: Thôn Định Tam, xã Vĩnh Hảo, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định – vắng mặt không lý do.

+ Anh Phan Xuân Đ – sinh năm: 1983; Địa chỉ: Khu phố Định Tố, thị trấn Vĩnh Thạnh, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định – vắng mặt không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 11/5/2020, Nguyễn Thành C điều khiển xe mô tô biển số 77N1 - 066.37 chở Tô Minh L đi đến nhà Đoàn Văn Q ở thôn VB, xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định, vừa khi đó Nguyễn Thành Đ là anh ruột của C điều khiển xe mô tô biển số 77N1-050.87 cũng đến nhà Đoàn Văn Q. Sau đó, C điều khiển xe mô tô biển số 77N1 - 050.87 đi đến thị xã An khê, tỉnh Gia Lai có công việc riêng, còn Đ và L ở lại nhà Q.

Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, Nguyễn Thanh C điều khiển xe mô tô biển số 77M3 - 7032 chở Hà Văn Kh đến nhà Q. Khi đó, Q rủ C, Kh đánh bầu cua ăn thua bằng tiền thì C, Kh đồng ý. Q lấy bộ dụng cụ dùng đánh bầu cua đã chuẩn bị sẵn từ trước đặt trên nền nhà phòng giữa của nhà Q rồi trực tiếp cầm cái lắc bầu cua để C, Kh đặt tiền và kêu cửa mỗi ván 200.000 đồng (tức số tiền người tham gia đánh bầu cua được đặt trên mỗi cửa không quá 200.000 đồng).

Sau đó, lần lượt Ngô Bá Ch điều khiển xe mô tô biển số 43X3 – 6761, Phạm Minh T điều khiển xe mô tô biển số 77N1 – 02786 đến nhà Q. Lúc này, Tô Minh L từ nhà dưới của Q đi lên và tham gia đánh bầu cua 01 ván rồi bỏ đi. Sau cùng, Huỳnh Phát L điều khiển xe mô tô biển số 77N1 – 04765 đến nhà Q. Nguyễn Thành Đ từ nhà bếp của Q cũng lên tham gia đánh bầu cua cùng với những người nói trên. Khi đánh được vài ván, Hà Văn Kh có công việc nhà nên không chơi nữa mà mượn xe của Nguyễn Thanh C đi về trước.

Đến khoảng 12 giờ 45 phút cùng ngày, lực lượng Công an xã VT đến kiểm tra, bắt quả tang được 02 đối tượng là Đoàn Văn Q và Huỳnh Phát L, các đối tượng còn lại chạy thoát, thu giữ tại chiếu bạc số tiền 6.900.000 đồng; 1.190.000 đồng trên người Huỳnh Phát L; một ví da màu đen bên trong có số tiền 14.500.000 đồng, một thẻ ATM ngân hàng Vietinbank tên PHAM MINH TAI, một đăng ký xe mô tô mang tên Nguyễn Văn T, 05 xe mô tô và tiến hành lập biên bản theo quy định. (Bút lục số: 169-180; 213-222;

241-248; 288-296; 330-339; 372-379; 411-418; 453-458; 460-479).

Hình thức đánh bạc bằng cách: Người cầm cái sử dụng một bộ thau – đĩa nhôm đậy kín, bên trong có 03 hột lập phương sáu mặt làm bằng xốp, mỗi hột có dáng hình 06 con vật: Tôm, cua, bầu, cá, gà, nai và một bàn bầu cua làm bằng cái bao bên ngoài có bọc ni lông, trên bao có dáng hình 06 con vật tương ứng như trên. Người làm cái cầm bộ thau được đậy kín lắc cho 03 hột bên trong nhảy lộn xộn rồi đặt xuống đất; các con bạc tiến hành đặt tiền vào các con vật tùy ý trên bàn giấy. Sau đó người cầm cái mở nắp thau ra nếu mặt trên cùng của 03 hột trong thau có hình con vật phù hợp với hình con vật mà các con bạc đặt thì chủ cái chung tiền và ngược lại. Nếu có 02 - 03 con vật giống nhau thì chủ cái chung tiền gấp 02 - 03 lần so với tiền con bạc đã đặt. Ngoài ra, có một số con bạc dùng tiền của con bạc khác đã đặt để đánh qua con vật khác (gọi là “tả”). Cách thức chung tiền giống như chủ cái.

Quá trình điều tra xác định số tiền thu giữ tại chiếu bạc là 6.900.000 đồng, trong đó, đã chứng minh được số tiền 5.600.000 đồng của các con bạc sử dụng để đánh bạc cụ thể như sau: Đoàn Văn Q sử dụng số tiền 4.200.000 đồng; Ngô Bá Ch sử dụng số tiền 700.000 đồng; Phạm Minh T sử dụng số tiền 400.000 đồng; Hà Văn Kh sử dụng số tiền 300.000 đồng; còn lại số tiền 1.300.000 đồng là của các con bạc trong quá trình bỏ chạy để lại tại chiếu bạc. Ngoài ra, thu giữ trên người các con bạc và số tiền các con bạc tự nộp lại tổng cộng là 1.640.000 đồng, trong đó, Huỳnh Phát L nộp lại 1.190.000 đồng; Tô Minh L nộp lại 250.000 đồng (trong đó, 200.000 đồng là tiền của L còn 50.000 đồng là tiền ăn được từ các con bạc khác) và Nguyễn Thanh C nộp lại 200.000 đồng.

Mức định lượng được áp dụng đối với các bị cáo gồm Đoàn Văn Q, Nguyễn Thanh C, Ngô Bá Ch, Phạm Minh T, Huỳnh Phát L và Nguyễn Thành Đ là 8.540.000 đồng. Riêng đối với Hà Văn Kh xác định tại thời điểm Kh tham gia đánh bầu cua số tiền các con bạc có mặt sử dụng tổng số tiền là 7.240.000 đồng và Tô Minh L là 5.650.000 đồng.

Về tình tiết tăng nặng: Không.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra các bị cáo Đoàn Văn Q, Nguyễn Thanh C và Tô Minh L đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các bị cáo C, Kh, Ch, T, L, L phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Về vật chứng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Thạnh đã tiến hành lập biên bản tạm giữ:

- Tạm giữ tại khu vực chiếu bạc:

+ 01 (một) thau nhôm và 01 (một) đĩa nhôm;

+ 06 (sáu) hột bầu cua có 06 (sáu) mặt in hình các con vật: tôm – cua – bầu – cá – gà – nai đã qua sử dụng;

+ 01 (một) cái bao màu vàng có dán hình các con vật: tôm – cua – bầu – cá – gà – nai, bên ngoài có bọc bì ni lông màu trắng;

+ Số tiền 6.900.000 đồng (Sáu triệu chín trăm nghìn đồng) trên chiếu bạc.

+ 01 (một) ví da màu đen bên trong có số tiền 14.500.000 đồng (Mười bốn triệu năm trăm nghìn đồng), một thẻ ATM ngân hàng Vietinbank tên PHAM MINH TAI, một đăng ký xe mô tô số 002079 mang tên Nguyễn Văn T.

- Tạm giữ trên người của ông Huỳnh Phát L số tiền 1.190.000 đồng (Một triệu một trăm chín mươi nghìn đồng).

- Tạm giữ số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) do ông Nguyễn Thanh C giao nộp dùng để đánh bạc.

- Tạm giữ của ông Ngô Bá Ch 01 điện thoại di động hiệu Masstel, màu đỏ - đen, bên trong có gắn thẻ sim số thuê bao 0359.871.796.

- Tạm giữ số tiền 250.000 đồng (Hai trăm năm mươi nghìn đồng) do ông Tô Minh L giao nộp dùng đánh bạc.

- Ngoài ra còn tạm giữ tại nhà ông Q 05 (năm) xe mô tô gồm: 01 xe Air Blade biển số 77N1 - 066.37 trong cốp xe có một túi da màu đen bên trong chứa số tiền 9.600.000 đồng (Chín triệu sáu trăm nghìn đồng), xe Wave S biển số 77H1 - 041.25, xe Sirius 77N1 - 027.86, xe Dream biển số 77H1 - 4334, Exeiter biển số 77N1 - 04765.

Quá trình điều tra, xét thấy không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên Cơ quan điều tra đã giao trả cho chủ sở hữu hợp pháp các tài sản như sau:

+ 01 (một) ví da màu đen bên trong có số tiền 14.500.000 đồng (Mười bốn triệu năm trăm nghìn đồng), 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Vietinbank tên PHAM MINH TAI, 01 (một) đăng ký xe mô tô số 002079 mang tên Nguyễn Văn T của Phạm Minh T.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Masstel, màu đỏ - đen, bên trong có gắn thẻ sim số thuê bao 0359.871.796 của Ngô Bá Ch.

+ 01 (một) xe mô tô mang biển số 77N1 - 066.37, loại xe Air Blade của bà Võ Thị H.

+ 01 ví da màu đen chứa số tiền 9.600.000 đồng (Chín triệu sáu trăm nghìn đồng) của Nguyễn Thành C bên trong cốp xe mang biển số 77N1 - 066.37.

+ 01 (một) xe mô tô mang biển số 77H1 - 041.25 loại xe Wave S và 01 (một) xe mô tô mang biển số 77H1 - 4334 loại xe Dream của Đoàn Văn Q.

(Bút lục số: 02-03; 200; 267-268; 340; 446; 485; 491) Về vấn đề bồi thường dân sự: Không.

Tại Cáo trạng số 08/CT-VKSVT ngày 25 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định, truy tố các bị cáo Đoàn Văn Q, Nguyễn Thanh C, Hà Văn Kh, Ngô Bá Ch, Phạm Minh T, Huỳnh Phát L, Nguyễn Thành Đ, Tô Minh L về tội “Đánh bạc” quy định tại Khoản 1 Điều 321 Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình sự:

Đề nghị tuyên các bị cáo Đoàn Văn Q, Nguyễn Thanh C, Hà Văn Kh, Ngô Bá Ch, Phạm Minh T, Huỳnh Phát L, Nguyễn Thành Đ và Tô Minh L phạm tội “Đánh bạc”.

- Đề nghị áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên phạt bị cáo Đoàn Văn Q mức án từ 12 – 15 tháng cải tạo không giam giữ, phạt bổ sung từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng sung công quỹ Nhà nước.

- Đề nghị áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thanh C, Hà Văn Kh, Ngô Bá Ch, Phạm Minh T, Huỳnh Phát L và Tô Minh L mức án từ 09 – 12 tháng cải tạo không giam giữ, phạt bổ sung từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng sung công quỹ Nhà nước.

- Đề nghị áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thành Đ mức án từ 09 – 12 tháng cải tạo không giam giữ, phạt bổ sung từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng sung công quỹ Nhà nước.

Ý kiến của các bị cáo: Thống nhất theo bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì thêm.

Về xử lý vật chứng: Đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều thống nhất, đề nghị áp dụng:

+ Điểm a Khoản 1 Điều 47 BLHS; Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuyên tịch thu, tiêu hủy các vật chứng gồm: 01 (một) thau nhôm và 01 (một) đĩa nhôm; 06 (sáu) hột bầu cua có 06 (sáu) mặt in hình các con vật: tôm – cua – bầu – cá – gà – nai đã qua sử dụng; 01 (một) cái bao màu vàng có dán hình các con vật: tôm – cua – bầu – cá – gà – nai, bên ngoài có bọc bì ni lông màu trắng.

+ Điểm c Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuyên trả 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius mang biển kiểm soát 77N1 - 027.86 cho Phạm Minh T và 01 xe mô tô nhãn hiệu Exeiter biển kiểm soát số 77N1 – 04765 cho Phạm Công D.

(Tất cả các vật chứng trên có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định).

+ Điểm b Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điểm b Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 8.540.000 đồng (Tám triệu năm trăm bốn mươi nghìn đồng).

(Số tiền trên được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định theo giấy ủy nhiệm chi ngày 31/8/2020 của Kho bạc nhà nước huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định).

Ý kiến của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án:

Đều giữ nguyên lời khai có trong hồ sơ vụ án.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

\ Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Tại phiên tòa các bị cáo Đoàn Văn Q, Nguyễn Thanh C, Hà Văn Kh, Ngô Bá Ch, Phạm Minh T, Huỳnh Phát L, Nguyễn Thành Đ, Tô Minh L đã khai nhận: Vào khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 11/5/2020, tại nhà bị cáo Đoàn Văn Q ở thôn VB, xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định, các bị cáo gồm: Q, C, Kh, Ch, T, L, Đ, L đã có hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức lắc bầu cua ăn thua bằng tiền mặt, do bị cáo Q trực tiếp cầm cái với tổng số tiền dùng để đánh bạc là 8.540.000 đồng thì bị bắt quả tang. Trong đó: Số tiền dùng để đánh bạc của bị cáo Q là 4.200.000 đồng; của bị cáo C là 200.000 đồng; của bị cáo Kh là 300.000 đồng; bị cáo Ch là 700.000 đồng; bị cáo T là 400.000 đồng (góp cho bị cáo L đánh và thua hết); bị cáo L là 1.190.000 đồng; bị cáo Đ là 300.000 đồng (đã thua hết); bị cáo L 200.000 đồng và 50.000 đồng (ăn từ các con bạc khác); số tiền còn lại là của các con bạc trong quá trình bỏ chạy để lại tại chiếu bạc.

Riêng các bị cáo Kh, L khi đánh bạc đã thua hết tiền nên về trước vì vậy xác định tại thời điểm bị cáo Kh, L tham gia đánh bầu cua số tiền các con bạc sử dụng để đánh bạc là 7.240.000 đồng và bị cáo L là 5.650.000 đồng.

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Xét các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Về nhận thức, các bị cáo hoàn toàn biết hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền là vi phạm pháp luật nhưng vì lòng tham lam, tư lợi nên các bị cáo đã cố tình thực hiện. Hành vi đánh bạc bằng hình thức lắc bầu cua thắng thua bằng tiền của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại trực tiếp đến tình hình an ninh, trật tự công cộng tại địa phương, đánh bạc còn là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác.

Hành vi của các bị cáo Đoàn Văn Q, Nguyễn Thanh C, Hà Văn Kh, Ngô Bá Ch, Phạm Minh T, Huỳnh Phát L, Nguyễn Thành Đ, Tô Minh L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Như vậy, Bản Cáo trạng số 08/CT-VKSVT ngày 25/8/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh truy tố các bị cáo Đoàn Văn Q, Nguyễn Thanh C, Hà Văn Kh, Ngô Bá Ch, Phạm Minh T, Huỳnh Phát L, Nguyễn Thành Đ, Tô Minh L về tội: “Đánh bạc” theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 của Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Các bị cáo C, Kh, Ch, T, L, L phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Riêng bị cáo Q khi Tòa án đang thụ lý giải quyết bị cáo Q bị tai nạn giao thông và phải điều trị tại Bệnh viện, tuy sức khỏe đã ổn định nhưng việc lao động để có tiền nuôi sống bản thân rất khó khăn. Do đó cần xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho từng bị cáo.

[4]. Về nhân thân:

Bị cáo Đoàn Văn Q có nhân thân xấu: Vào ngày 23/9/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định tuyên phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” theo Bản án số 11/2014/HSST (đã xóa án tích).

Bị cáo Huỳnh Phát L: Bị Công an thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai xử phạt hành chính 02 lần (Lần 01 vào ngày 28/6/2014 về hành vi “có lời nói, hành động lăng mạ xúc phạm danh dự nhân phẩm của người thi hành công vụ”; Lần 02 vào ngày 17/01/2013 về hành vi “Báo thông tin giả đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền”).

Bị cáo Tô Minh L: Trong lúc vụ án đánh bạc đang thụ lý giải quyết thì bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc vào ngày 06/6/2020 và đã bị Công an thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai bắt quả tang và bị xử phạt hành chính theo Quyết định xử phạt hành chính số: 0001547 ngày 08/10/2020 của Công an thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai.

Bị cáo Phạm Minh T: Trong lúc vụ án đánh bạc đang thụ lý giải quyết thì bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc, được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định khởi tố vụ án vụ án vào ngày 21/3/2021.

Bị cáo Nguyễn Thành Đ: Vào ngày 20/7/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương tuyên phạt 09 tháng tù có thời hạn về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Bản án số 169/2010/HSST (đã xóa án tích).

[5]. Xét về tính chất và mức độ phạm tội: Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Đoàn Văn Q là người đề xuất việc đánh bạc và các bị cáo khác cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử cần xử phạt các bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo nhằm răn đe, giáo dục cho các bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[6]. Xét thấy các bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình và có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 51 của Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Các bị cáo đều có nơi cư trú rõ ràng. Do đó Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ và bổ sung hình phạt tiền đối với đối với các bị cáo là đủ sức răn đe, giáo dục các bị cáo trở thành người tốt, sống có ích cho xã hội.

[7]. Về xử lý vật chứng:

Xét số tiền thu giữ trên chiếu bạc là 6.900.00 đồng và số tiền thu giữ trên người của các bị cáo dùng vào việc đánh bạc là 1.640.000 đồng, tổng cộng là 8.540.000 đồng. Xét đây là tiền các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước là phù hợp với quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015. (Số tiền trên được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định theo giấy ủy nhiệm chi ngày 31/8/2020 của Kho bạc nhà nước huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định).

Xét các vật chứng gồm: 01 (một) thau nhôm và 01 (một) đĩa nhôm; 06 (sáu) hột bầu cua có 06 (sáu) mặt in hình các con vật: Tôm – cua – bầu – cá – gà – nai đã qua sử dụng; 01 (một) cái bao màu vàng có dán hình các con vật: Tôm – cua – bầu – cá – gà – nai, bên ngoài có bọc bì ni lông màu trắng; đây là các công cụ mà các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015.

Xét các xe mô tô gồm: 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius mang biển kiểm soát 77N1 - 027.86; 01 xe mô tô nhãn hiệu Exeiter biển kiểm soát số 77N1 – 04765, đây là tài sản không liên quan đến việc phạm tội nên cần tuyên trả cho chủ sở hữu là phù hợp với quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015, (Tất cả các vật chứng trên có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định).

[8]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

[9]. Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Đoàn Văn Q, Nguyễn Thanh C, Hà Văn Kh, Ngô Bá Ch, Phạm Minh T, Huỳnh Phát L, Nguyễn Thành Đ, Tô Minh L phạm tội: “Đánh bạc”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ Khoản 1, 3 Điều 321; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Đoàn Văn Q 15 (Mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo Đoàn Văn Q cho Ủy ban nhân dân xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định phối hợp với gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định nhận được Bản án và Quyết định thi hành án. Trong trường hợp người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Phạt bổ sung bị cáo Đoàn Văn Q số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

Căn cứ Khoản 1, 3 Điều 321; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh C 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo Nguyễn Thanh C cho Ủy ban nhân dân xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định phối hợp với gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định nhận được Bản án và Quyết định thi hành án. Trong trường hợp người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thanh C số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

Căn cứ Khoản 1, 3 Điều 321; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Hà Văn Kh 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo Hà Văn Kh cho Ủy ban nhân dân xã Cát Tường, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định phối hợp với gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân xã Cát Tường, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định nhận được Bản án và Quyết định thi hành án. Trong trường hợp người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Phạt bổ sung bị cáo Hà Văn Kh số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

Căn cứ Khoản 1, 3 Điều 321; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Ngô Bá Ch 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo Ngô Bá Ch cho Ủy ban nhân dân xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định phối hợp với gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định nhận được Bản án và Quyết định thi hành án. Trong trường hợp người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Phạt bổ sung bị cáo Ngô Bá Ch số tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

Căn cứ Khoản 1, 3 Điều 321; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Phạm Minh T 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo Phạm Minh T cho Ủy ban nhân dân xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định phối hợp với gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định nhận được Bản án và Quyết định thi hành án. Trong trường hợp người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Phạt bổ sung bị cáo Phạm Minh T số tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

Căn cứ Khoản 1, 3 Điều 321; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Phát L 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo Huỳnh Phát L cho Ủy ban nhân dân xã Thành An, thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai phối hợp với gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân xã Thành An, thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai nhận được Bản án và Quyết định thi hành án. Trong trường hợp người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Phạt bổ sung bị cáo Huỳnh Phát L số tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

Căn cứ Khoản 1, 3 Điều 321; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thành Đ 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo Nguyễn Thành Đ cho Ủy ban nhân dân xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định phối hợp với gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân xã VT, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định nhận được Bản án và Quyết định thi hành án.

Trong trường hợp người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thành Đ số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

Căn cứ Khoản 1, 3 Điều 321; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Tô Minh L 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo Tô Minh L cho Ủy ban nhân dân xã ML, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định phối hợp với gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân xã ML, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định nhận được Bản án và Quyết định thi hành án. Trong trường hợp người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Phạt bổ sung bị cáo Tô Minh L số tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); các Điểm a, c Khoản 2, Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015, Tuyên tịch thu, tiêu hủy các vật chứng gồm: 01 (một) thau nhôm và 01 (một) đĩa nhôm; 06 (sáu) hột bầu cua có 06 (sáu) mặt in hình các con vật: tôm – cua – bầu – cá – gà – nai đã qua sử dụng; 01 (một) cái bao màu vàng có dán hình các con vật: tôm – cua – bầu – cá – gà – nai, bên ngoài có bọc bì ni lông màu trắng;

Tuyên trả cho Phạm Minh T 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius mang biển kiểm soát 77N1 - 027.86 và Phạm Công D 01 xe mô tô nhãn hiệu Exeiter biển kiểm soát số 77N1 - 04765.

(Tất cả các vật chứng trên có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định).

Tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 8.540.000 đồng (Tám triệu năm trăm bốn mươi nghìn đồng); (Số tiền trên được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định theo giấy ủy nhiệm chi ngày 31/8/2020 của Kho bạc nhà nước huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định).

4. Về án phí sơ thẩm:

Căn cứ Khoản 2 Điều 135, Khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 21, Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên buộc: Các bị cáo Đoàn Văn Q, Nguyễn Thanh C, Hà Văn Kh, Ngô Bá Ch, Phạm Minh T, Huỳnh Phát L, Nguyễn Thành Đ, Tô Minh L, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm thẩm sung công quỹ Nhà nước.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 07/2021/HS-ST ngày 18/05/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:07/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Thạnh - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;