TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC NINH, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 07/2021/HS-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 02 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2021/TLST-HS ngày 05/01/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2021/QĐXXST-HS ngày 20/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh đối với các bị cáo:
1.1 Nguyễn Thanh L, sinh năm 2000; Tại Bình Phước; Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: Ấp Thạnh Tây, xã Lộc Tấn, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: không;Trình độ học vấn: 2/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Xíu ( Chết) và bà Nguyễn Thị Bé; Sinh năm:
1960, bị cáo chưa có vợ; Tiền án: không; Tiền sự: không.
Nhân thân: Ngày 23/11/2019 TAND huyện Lộc Ninh xử phạt 06 tháng tù về tội cố ý gây Th tích.
Bị bắt từ ngày 10 tháng 9 năm 2020 cho đến nay
1.2 Nguyễn Nhật Nam E sinh năm 1998; Tại Bình Phước; Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: Ấp Thạnh Tây, xã Lộc Tấn, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: làm vườn; trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Xíu( Chết) và bà Nguyễn Thị Bé; Sinh năm: 1960; bị cáo chưa có vợ; Tiền án: không; Tiền sự: không.
Bị bắt từ ngày 10 tháng 9 năm 2020 đến nay.
1.3 Trịnh Trọng Ngh sinh năm 1989;Tại Cà Mau;Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: Ấp Thạnh Đông, xã Lộc Tấn, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước; Nghề Nghiệp; không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới: tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trịnh Trọng Hải; Sinh năm: 1959và bà: Nguyễn Thị Xương; Sinh năm:
1959Vợ; Điểu Thị Bích Hạnh; Sinh năm 1989; Bị cáo có 03 nguời con lớn nhất sinh năm 2009;Nhỏ nhất sinh năm 2019;Tiền án: không;Tiền sự: không.
Bị bắt từ ngày 10 tháng 9 năm 2020 đến nay. Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Lê Văn Th sinh năm 1973 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Thạnh Tây, xã Lộc Tấn, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước. Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh L Ông Dương Tất Phú- Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bình Phước.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 9 giờ ngày 20/5/2020, Nguyễn Thanh L đi ngang qua nhà của ông Lê Văn Th ấp Thạnh Tây, xã Lộc Tấn, huyện Lộc Ninh nhìn thấy nhà ông Liêm không có người ở nhà và thấy trước nhà có 01 cây mai, Liêm nảy sinh ý định trộm cây mai bán lấy tiền tiêu xài. Liêm gặp Trịnh Trọng Ngh và rủ Nghĩa tối sẽ đi trộm cây mai. Nghĩa đồng ý. Đến 20 giờ cùng ngày, Nghĩa đến nhà Liêm và gặp Nguyễn Nhật Nam E là anh ruột của Liêm và rủ Nam E cùng đi trộm cây mai với Liêm và Nghĩa. Nam E đồng ý. Đến 01 giờ ngày 21/5/2020 Nghĩa điều khiển xe mô tô không biển số của Nghĩa đến nhà Liêm chở Liêm và Nam E đi trộm cây mai. Khi đi Nghĩa có lấy 01 cái xẻng dài khoản 60cm ở nhà của Liêm. Liêm chỉ đường cho Nghĩa chạy đến nhà ông Th. Khi còn cách 100 mét thì Nghĩa dừng xe, giấu xe vào lô cao su còn Nam E ở phía ngoài cảnh giới còn Liêm và Nghĩa vào trong khu vực nhà ông Th, Nghĩa và Liêm lấy 01 cây cuốc của nhà ông Th đào gốc mai cùng với cái xẻng trước đó đã đem theo từ nhà Liêm. Nghĩa và Liêm thay nhau đào đến 04 giờ ngày 21/5/2020 đào xong cây mai, Nghĩa và Liêm lấy 01 con dao của ông Th tỉa cành mai sau đó Liêm điều khiển xe mô tô chở Nam E cùng với cây mai đem về nhà Liêm cất giấu, còn Nghĩa đi bộ sau khi đem cây mai về nhà, Liêm quay lại chở Nghĩa.
Tại cơ quan điều tra Công an huyện Lộc Ninh, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi pham tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh đã truy tố.
Cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 04 tháng 01 năm 2021 của Viên Kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh L, Trịnh Trọng Ngh, Nguyễn Nhựt Nam Evề tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thanh L, Trịnh Trọng Nghĩa, Nguyễn Nhựt Nam E phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng khoản 1 điều 173 điểm s,q khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, 58, 38 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh L từ 15 đến 18 tháng tù.
Áp dụng khoản 1 điều 173 điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, 58,38 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt Trịnh Trọng Ngh 12 đến 15 tháng tù.
Xử phạt Nguyễn Nhựt Nam E 09 đến 12 tháng tù.
Các Bị cáo không tranh luận, không kêu oan.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh L bào chữa như sau:
Về tội danh thống nhất như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh, qua diễn biến tại phiên tòa nhận thấy bị cáo Nguyễn Thanh L sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn, khi phạm tội, bị cáo là người bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, bị cáo là người có trình độ học vấn thấp đề nghị hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo các điểm h,h,q khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như nhận định của kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa cho rằng bị cáo có tiền án chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm theo điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự là không chính xác vì theo điều 107 bộ luật hình sự quy định người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án tính, nếu thuộc một trong các trường hợp sau:... Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý. Ngày 23/11/2019 Nguyễn Thanh L bị xét xử 6 tháng tù về tội cố ý gây Th tích như vậy thuộc trường hợp được coi là không có án tích.
Từ các phân tích như trên, đề nghị hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án 9 tháng tù.
Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Thanh L, Trần Trọng Ngh, Nguyễn Nhựt Nam E trước khi Hội đồng xét xử nghị án:
Xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử NHẬN THẤY
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lộc Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng.
[2] Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại về thời gian và địa điểm xảy ra vụ án và toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, có đầy đủ cơ sở khách quan xác định Ngày 21/5/2020 Liêm và Nghĩa, Nhựt Em đã lén lút đào trộm 01 cây mai của nhà ông Th sau đó đem về nhà Liêm cất giấu Căn cứ vào các kết luận định giá tài sản số 80/2020/KL-HĐĐGTS ngày 26/06/2020 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lộc Ninh 01 cây mai cao 2,6cm, hoành gốc cây 42cm, đã tỉa cành và rễ có giá trị 5.200.000đ. Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh truy tố các bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ.
[3] Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo đều là người đã thành niên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Riêng bị cáo Liêm bị hạn chế khả năng nhận thức và điều kiển hành vi.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xem thường pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý Do đó, cần có một hình phạt tương xứng với hành vi của các bị cáo nhằm răn đe, giáo dục, cải tạo các bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.
Đây là vụ án đồng phạm có tính chất giản đơn, nhưng cũng cần phân tích vai trò mỗi bị cáo để cụ thể hóa hình phạt tương xứng vai trò trong đồng phạm.
Bị cáo Nguyễn Thanh L là người khởi xướng, cầm đầu đưa ra ý tưởng trộm cắp, bị cáo cùng với Nghĩa là người trực tiếp đào gốc mai sau khi đào được Liêm dùng xe của Nghĩa chở về nhà Liêm cất giấu, như vậy vai trò của Liêm cao hơn các bị cáo khác.
Đối với Nghĩa tuy không phải là người đề xướng nhưng khi nghe Liêm rủ đi trộm đã đồng ý ngoài ra, Nghĩa lại rủ rê thêm Nam E là anh của Liêm cùng tham gia đi trộm cắp tài sản, Nghĩa tham gia tích cực không kém Liêm và dùng phương tiện của Nghĩa chở Liêm và Nam E đi trộm sau đó đưa phương tiện cho Liêm chở tài sản trộm cắp được về nhà của Liêm. Đối với Nam E là đồng phạm nhưng vai trò thứ yếu, Nam E chỉ đi cùng và đứng ngoài cảnh giới, không tham gia trực tiếp lấy trộm tài sản, sau khi Liêm và Nghĩa trộm được đã giúp Liêm đưa cây mai về nhà.
Mục đích động cơ phạm tội của các bị cáo là vì không muốn lao động nhưng lại muốn có tiền tiêu xài nên đã phạm tội.
Xét về nhân thân: Bị cáo Nghĩa và Nam E chưa có tiền án, tiền sự sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản chiếm đoạt có giá trị không lớn và đã thu hồi trả lại cho bị hại, bị cáo Nam E và Nghĩa được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h,i,s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.
Bị cáo Liêm có nhân thân xấu ngày 23/11/2019 bị xử phạt 6 tháng tù về tội cố ý gây Th tích nhưng do khi bị xét xử, bị cáo là người chưa thành niên căn cứ vào khoản 1 điều 170 Bộ luật hình sự lần phạm tội này, bị cáo được coi là không có án tích nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năng hối cải, căn cứ vào kết luận giám định pháp y tâm thần số 632/KL-VPYTW ngày 09/11/2020 của Viện pháp y tâm thần trung ương Biên Hòa kết luận: tại thời điểm gây án đương sự bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Hiện nay đương sự đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h,q,s khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Các bị cáo đều là những người sử dụng ma túy, do muốn có tiền để mua ma túy sử dụng nên các bị cáo đã trộm cắp tài sản của người khác. Tuy các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng tất cả đều sử dụng ma túy đây cũng là tệ nạn xã hội nhận thấy các bị cáo không có khả năng tự cải tạo do đó cần thiết áp dụng hình phạt nghiêm là tù có thời hạn nhằm răng đe, giáo dục cải tạo các bị cáo cũng như phong ngừa chung.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo là cần thiết, tuy nhiên mức hình phạt đối với từng bị cáo là có phần nghiêm khắc.
[4] Về vật chứng vụ án:
Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lộc Ninh đã thu hồi được cây mai trả lại cho bị hại, đối với các vật chứng khác như xe mô tô, cuốc, xẻng, dao quá trình truy tìm nhưng không thu hồi được.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
Ông Lê Văn Th đã nhận được tài sản và không yêu cầu gì khác nên không xem xét. [6] Về án phí: các bị cáo phải chịu theo luật định.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh L, Trịnh Trọng Ngh, Nguyễn Nhựt Nam E phạm tội “trộm cắp tài sản”
2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h,q,s khoản 1 Điều 51 Điều 17,58, 38 của Bộ luật hình sự:
Xử phạt Nguyễn Thanh L 01 (một) năm tù. Thời gian tính tù từ ngày 10/9/2020 Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h,i,s khoản 1 Điều 51 Điều 17,58, 38 của Bộ luật hình sự:
Xử phạt Trịnh Trọng Ngh 10 (mười) tháng tù. Thời gian tính tù từ ngày 10/9/2020 Xử phạt Nguyễn Nhựt Nam E 08 (tám) tháng tù. Thời gian tính tù từ ngày 10/9/2020.
Tiếp tục tạm giam các bị cáo Nguyễn Thanh L, Trịnh Trọng Ngh, Nguyễn Nhựt Nam E trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo việc thi hành án.
3Về án phí:
Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:
Bị cáo Nguyễn Thanh L, Trịnh Trọng Ngh, Nguyễn Nhựt Nam E mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo, bị hại, người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Đối với bị hại do vắng mặt tại phiên tòa, thời gian kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định.
Bản án 07/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 07/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/02/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về