TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ YÊU CẦU NUÔI CON CHUNG
Trong ngày 29 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 260/2019/TLST- HNGĐ, ngày 27 tháng 9 năm 2019 về việc “Tranh chấp về ly hôn và yêu cầu nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2020/QĐXXST- HNGĐ, ngày 28 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị T, sinh năm 1979 (có mặt);
Bị đơn: Ông Nguyễn Quốc T, sinh năm 1973 (vắng mặt). Cùng địa chỉ: ấp H, xã Đ, huyện G, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai đề ngày 10/9/2019 và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Huỳnh Thị T trình bày:
Sau 06 tháng tự tìm hiểu, bà và ông Nguyễn Quốc T tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng vào năm 1998, hôn nhân tự nguyện và vợ chồng có đăng ký kết hôn trễ hạn tại UBND xã Đ, huyện G, tỉnh Kiên Giang vào ngày 18/5/2015.
Vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc được 03 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do tính tình không hợp nhau, ông T không lo làm ăn còn thường xuyên uống rượu say về đập phá đồ đạc, la mắng vợ con làm cho cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc nên vợ chồng đã tự ly thân từ giữa tháng 4 năm 2019 đến nay. Nay, bà nhận thấy vợ chồng không thể hàn gắn với nhau được nữa nên yêu cầu được ly hôn.
Quá trình chung sống, vợ chồng bà có 02 con chung tên: Nguyễn Tường V – sinh năm 1999 và Nguyễn Huỳnh Gia H – sinh ngày 07/6/2014, cả 02 con đang sống cùng với bà.
Về tài sản chung, bà T xác định không có.
Về nợ chung, bà T xác định ông bà có nợ bà Nguyễn Xuân Th số tiền 250.000.000đ nhưng ông bà tự thỏa thuận với bà Th nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa: Về hôn nhân, bà Huỳnh Thị T yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Quốc T; Về con chung, cháu V đã trưởng thành nên bà không yêu cầu gì, còn cháu H thì bà yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng; Về tài sản chung, bà T xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung, bà T xác định ông bà có nợ bà Nguyễn Xuân Th số tiền 250.000.000đ nhưng ông bà tự thỏa thuận với bà Th nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn ông Nguyễn Quốc T không có mặt tại phiên tòa: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng ông T không có mặt cũng không cung cấp bản tự khai cho Tòa án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến hay bất cứ yêu cầu nào của ông.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng; việc thu thập tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát đúng quy định. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự chấp hành đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã được thông báo, tống đạt các văn bản tố tụng đúng quy định nhưng đều vắng mặt là không tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 203 BLTTDS 2015.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: Chấp nhận cho bà Huỳnh Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Quốc T; về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Huỳnh Gia H – sinh ngày 07/6/2014 cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, ghi nhận bà T không yêu cầu cấp dưỡng; về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình chung sống, do phát sinh mâu thuẫn không giải quyết được với nhau nên bà Huỳnh Thị T khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Quốc T được Tòa án thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền được quy định tại Điều 28 và Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (Bộ luật BLTTDS 2015).
Ông Nguyễn Quốc T với tư cách là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai không có lý do, căn cứ khoản 2 Điều 227 BLTTDS 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông T.
[2] Về hôn nhân: Bà Huỳnh Thị T và ông Nguyễn Quốc T xác lập quan hệ hôn nhân với nhau vào năm 1998, hôn nhân tự nguyện và có đăng ký kết hôn trễ hạn tại UBND xã Đ, huyện G, tỉnh Kiên Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 105/2015, ngày 18/5/2015, theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, hôn nhân của ông bà là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.
Xét yêu cầu của bà Huỳnh Thị T xin được ly hôn với ông Nguyễn Quốc T vì lý do tính tình không hợp nhau, ông T không lo làm ăn lại thường xuyên uống rượu say về đập phá đồ đạc, la mắng vợ con làm cho cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Đối với ông Nguyễn Quốc T, Tòa án đã nhiều lần tống đạt và thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng trong đó có 02 lần tống đạt Thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhằm tạo điều kiện cho vợ chồng ông bà hòa giải, đoàn tụ với nhau nhưng ông T đều không có mặt.
Tại phiên tòa, bà T khai rõ, thời gian vợ chồng ly thân ông T luôn tạo áp lực với bà chứ không có ý định hàn gắn vợ chồng, bản thân bà cũng không còn tình cảm dành cho ông T nữa, vì vậy, bà T cương quyết ly hôn. Hội đồng xét xử thấy rằng, sau nhiều năm chung sống, giữa bà T và ông T đã không còn duy trì được tình cảm yêu thương dành cho nhau nữa, mâu thuẫn thường xuyên xảy ra dẫn đến vợ chồng ly thân hơn 01 năm nay. Điều đó đã thể hiện được sự trầm trọng trong cuộc sống hôn nhân của ông bà, làm cho đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T.
[3] Về con chung: Bà T xác định vợ chồng bà có 02 người con chung tên Nguyễn Tường V – sinh năm 1999 và Nguyễn Huỳnh Gia H – sinh ngày 07/6/2014, cháu V đã trưởng thành nên bà không yêu cầu gì, còn cháu H đang sống cùng với bà T nên bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con và không yêu cầu ông T cấp dưỡng. Đối với ông T, từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử, ông T đều không có mặt cũng không có ý kiến và yêu cầu gì đối với yêu cầu được nuôi con chung của bà T nên Hội đồng xét xử không thể xem xét nguyện vọng của ông T.
Xét yêu cầu nuôi con chung của bà T, từ khi ông bà ly thân đến nay, cháu H do bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và phát triển bình thường như những đứa trẻ khác. Đồng thời, cháu H cũng có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với bà T. Vì vậy, cần thiết giao cháu H cho bà T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với thực tế, đúng với nguyện vọng của cháu H và đúng theo quy định tại Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình 2014. Bà T được HĐXX, đại diện Viện kiểm sát giải thích về quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nhưng bà không yêu cầu cấp dưỡng nên HĐXX không xem xét.
[4] Về tài sản chung: Bà Huỳnh Thị T xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về nợ chung: Bà T xác định, ông bà có nợ bà Nguyễn Xuân Th số tiền 250.000.000đ nhưng ông bà tự thỏa thuận với bà Th nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với bà Nguyễn Xuân Th, Tòa án có nhận được đơn yêu cầu độc lập của bà Th nhưng bà Th không thực hiện đóng tạm ứng án phí để Tòa án giải quyết yêu cầu của bà trong cùng vụ kiện này nên Tòa án đã ra Thông báo trả lại đơn khởi kiện và tống đạt hợp lệ cho bà Th. Vì vậy, nếu sau này bà Th và bà T, ông T không thỏa thuận được với nhau về việc trả nợ thì có quyền khởi kiện thành một vụ kiện dân sự khác, do đó không xem xét về vấn đề nợ chung của bà T và ông T.
[6] Về án phí: Án phí ly hôn là 300.000đ bà T phải nộp do có yêu cầu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho bà Huỳnh Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Quốc T.
2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Huỳnh Gia H – sinh ngày 07/6/2014 cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông T không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền tới lui thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở ông thực hiện quyền này.
Khi cần thiết ông bà có quyền làm đơn xin thay đổi quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Huỳnh Thị T phải nộp án phí là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005761, ngày 27/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Kiên Giang. Như vậy, bà T đã nộp xong án phí.
4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 29/01/2021). Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp ly hôn và yêu cầu nuôi con chung
Số hiệu: | 07/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về